Bản án 24/2021/HS-ST ngày 26/05/2021 về tội tàng trữ hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHÚ THỌ, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 24/2021/HS-ST NGÀY 26/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ HÀNG CẤM

Ngày 26 tháng 5 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 21/2021/TLST-HS ngày 14 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2021/QĐXXST- HS ngày 12 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

Hoàng Anh D - sinh ngày 07/01/1992 tại thị xã P, tỉnh Phú Thọ; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở hiện nay: Khu P, phường P, thị xã P, tỉnh Phú Thọ; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Hoàng Ngọc T - sinh năm 1968 và bà Lê Thị S - sinh năm 1970; bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Nhân thân: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 24/01/2021 đến ngày 02/02/2021 bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Hiện bị cáo đang tại ngoại tại phường P, thị xã P, tỉnh Phú Thọ. (Có mặt).

+Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Đinh Thị Lan H - sinh năm 1991. Trú tại: Khu P, phường P, thị xã P, tỉnh Phú Thọ. (Vắng mặt)

+Người chứng kiến: Ông Hoàng Văn D - sinh năm 1960. Trú tại: Khu 8, xã H, thị xã P, tỉnh Phú Thọ. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 20 phút ngày 23/01/2021, tại khu vực km 65 đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai thuộc khu 8, xã H, thị xã P, Tổ công tác Công an thị xã P phát hiện Hoàng Anh D mang 01 hộp bìa cát tông đang đi bộ ra khỏi khu vực hàng rào bảo vệ đường cao tốc. Thấy có dấu hiệu nghi vấn liên quan đến tàng trữ hàng cấm, tổ công tác yêu cầu kiểm tra, phát hiện bên trong hộp cát tông có 05 khối hộp chữ nhật, mỗi khối hộp có kích thước 14,5 cm x 14,7 cm x 14,7 cm, tại góc cạnh của khối hộp đều có dây dẫn màu xanh và 01 khối hộp chữ nhật có kích thước là 16,5 cm x 16,7 cm x 14,5 cm, tại góc cạnh có đoạn dây dẫn màu xám; bên ngoài cả 06 khối hộp đều được bọc lớp giấy nhiều màu sắc có in dòng chữ nước ngoài; tổng trọng lượng 06 khối hộp là 8,6kg. Tại chỗ, D khai nhận 06 khối hộp có đặc điểm như trên là pháo hoa nổ, D mua để sử dụng. Tổ công tác lập biên bản sự việc, tạm giữ của D 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia 105 màu xanh đen lắp sim số 0963787282 và 01 xe mô tô nhãn hiệu SYM ATILA BKS 19M1 - 00053 đồng thời niêm phong 06 khối hộp theo quy định. Hoàng Anh D bị bắt, tạm giữ theo quyết định của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã P.

Phục vụ công tác điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã P đã quyết định trưng cầu giám định 06 khối hộp thu giữ của Hoàng Anh D. Tại bản kết luận giám định số 228/KLGĐ ngày 27/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ kết luận: “06 (sáu) khối hộp gửi đến giám định, bên trong mỗi khối hộp đều có các vật hình trụ tròn vỏ giấy màu nâu được liên kết với nhau đều là pháo hoa nổ (có chứa thuốc pháo, khi đốt gây ra tiếng rít, tiếng nổ và tạo ra hiệu ứng màu sắc trong không gian). Tổng khối lượng của 06 khối hộp là 8,6kg (Tám phẩy sáu kilôgam).

* Pháo hoa nổ được quy định tại điểm a, khoản 1 Điều 3 của Nghị định số 137/2020/NĐ-CP, ngày 27/11/2020 của Chính phủ về quản lý, sử dụng pháo.

Hoàn trả lại: 7,1 kg (Bẩy phẩy một kilôgam) pháo hoa nổ cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định. Tất cả mẫu vật và bao gói được niêm phong trong 01 hộp cát tông, bên ngoài hộp cát tông có dán các giấy niêm phong, trên mỗi giấy niêm phong đều có chữ ký của những người tham gia đóng gói niêm phong và 02 hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Phú Thọ.” Ngày 01/02/2021, Cơ quan điều sảnh sát điều tra Công an thị xã P đã quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định khởi tố bị can và áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú đối với Hoàng Anh D về Tội tàng trữ hàng cấm quy định tại khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự.

Tại cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã P, Hoàng Anh D khai nhận: Do có nhu cầu sử dụng pháo hoa trong dịp tết nguyên đán 2021 nên qua quen biết với chị Nguyễn Thùy T, sinh năm: 1994 trú tại xã S, huyện T, tỉnh Phú Thọ; D gọi điện đến số điện thoại 036859068 của chị T để hỏi chị T biết chỗ nào bán pháo hoa thì giới thiệu cho D. Chị T đồng ý cho D số điện thoại 0982356077 của người bán pháo tên N để D liên lạc mua pháo. Ngày 23/01/2021, D dùng số điện thoại 0963787282 gọi tới số 0982356077 thỏa thuận mua 06 giàn pháo hoa nổ với giá 2.000.000 đồng và hẹn khoảng 20 giờ cùng ngày sẽ gặp nhau tại khu vực km 65 đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai thuộc khu 8, xã H, thị xã P để mua, bán pháo. Khoảng 19 giờ, D điều khiển xe mô tô BKS 19M1-00053 chở chị T đến điểm hẹn, đứng chờ người bán pháo được khoảng 10 phút thì chị T có việc nên gọi taxi về trước còn D tiếp tục ở lại. Đến khoảng 19 giờ 50 phút thì có 01 chiếc ô tô màu đỏ, D không nhớ rõ đặc điểm nhãn hiệu, biển kiểm soát lưu thông hướng Lào Cai đi Hà Nội tới chỗ D đứng thì dừng lại; trên xe có một người đàn ông đeo khẩu T bước xuống nói tên Nam và đưa cho D 01 thùng cát tông bên trong có pháo; D trả cho người này 2.000.000 đồng như thỏa thuận rồi mang thùng pháo đi ra khỏi khu vực hàng rào bảo vệ đường cao tốc thì bị tổ công tác Công an thị xã P kiểm tra, phát hiện và thu giữ như trên.

Căn cứ lời khai của Hoàng Anh D, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã P đã làm việc với chị Nguyễn Thùy T; chị T khai có đăng ký và sử dụng số điện thoại 036859068, quá trình sử dụng chị T đã bị mất điện thoại kèm sim số trên; bản thân chị T có mối quan hệ quen biết xã hội với D, tuy nhiên chị T không thừa nhận nội dung chị giới thiệu, cho số điện thoại người bán pháo và cùng D đến chỗ hẹn mua pháo như D đã khai. Do chưa xác định được người bán pháo nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã P tiếp tục điều tra, làm rõ, xử lý sau.

Đối với người bán pháo cho D ngày 23/01/2021, D không biết tên, tuổi, địa chỉ; khi trao đổi mua bán pháo thì người này đeo khẩu T nên D không nhìn rõ mặt. Số điện thoại D liên lạc với người bán pháo là số 0982356077, kết quả điều tra xác định đăng ký chủ thuê bao là anh Nguyễn Minh H, sinh năm: 1992 trú tại cụm dân cư ô tô số 3, D, B, quận H, thành phố Hà Nội; Cơ quan điều tra Công an thị xã P đã tổ chức xác minh nhưng hiện anh H không có mặt tại địa phương, không xác định được H ở đâu, làm gì. Vì vậy, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã P tách riêng để điều tra, làm rõ, xử lý sau.

Đối với số thuê bao 0963787282 D khai nhận liên lạc mua bán pháo ngày 23/01/2021, kết quả điều tra xác định đăng ký chủ thuê bao là chị Trần Thị H, sinh năm 1990, trú tại: xã C, huyện Y, tỉnh Nghệ An. Tuy nhiên chị H trình bày chị không đăng ký, sử dụng sô thuê bao trên, bản thân chị H không biết D là ai và không liên quan đến việc mua bán pháo.

Tại phiên tòa, bị cáo Hoàng Anh D khai nhận: Bị cáo thừa nhận nội dung bản cáo trạng truy tố bị cáo là đúng. Bị cáo không có tài liệu, chứng cứ cũng như không có ai biết việc chị T cho bị cáo số điện thoại để liên lạc mua pháo. Bị cáo cũng không biết tên, địa chỉ cụ thể của người bán pháo cho bị cáo. Khi bị kiểm tra, bị cáo tạm giữ: 01 hộp bìa cát tông bên trong có 06 khối hộp là pháo hoa nổ có khối lượng là 8,6kg để bị cáo sử dụng; 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia 105 lắp sim số 0963787282 là điện thoại bị cáo dùng liên lạc mua bán pháo và 01 xe mô tô nhãn hiệu SYM ATILA BKS 19M1-00053 bị cáo mượn của chị H. Công an đã trả xe trên cho chị H. Bị cáo không có tài sản gì, lao động tự do, thu nhập bình quân hàng tháng thấp.

Bản cáo trạng số 23/CT-VKSTXPT ngày 12/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã P, tỉnh Phú Thọ truy tố bị can Hoàng Anh D về tội: “Tàng trữ hàng cấm” theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 191 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã P giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố không có lời tranh luận và bào chữa nào khác. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Anh D phạm tội: “Tàng trữ hàng cấm”.

Áp dụng điểm c khoản 1 điều 191, điểm i, s khoản 1 điều 51; điều 65 Bộ luật hình sự Xử phạt: Bị cáo Hoàng Anh D từ 9 tháng đến 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 tháng đến 24 tháng. Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo -Về xử lý vật chứng và tài liệu, đồ vật tạm giữ: Áp dụng điểm a, c khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu của bị cáo Hoàng Anh D 01 hộp cát tông niêm phong kín, bên ngoài có dán các giấy niêm phong, trên mỗi giấy niêm phong đều có chữ ký của những người tham gia đóng gói niêm phong và 02 hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Phú Thọ, bên trong có 7,1 kg (Bẩy phẩy một kilôgam) pháo hoa nổ cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định để tiêu hủy;

Giao lại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã P 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia 105 màu xanh đen có số seri 35418510956158, lắp sim số 0963.787.282 của bị cáo Hoàng Anh D để tạm giữ tiếp tục điều tra và xử lý sau.

Xác nhận ngày 02/3/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã P đã trả cho chị Đinh Thị Lan H 01 xe mô tô nhãn hiệu SYM ATILA BKS 19M1-00053 là hợp pháp.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo ân hận về hành vi mà bị cáo đã phạm, mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo hưởng hình phạt nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng:

Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã P, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã P, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Đánh giá các chứng cứ buộc tội đối với bị cáo:

Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo Hoàng Anh D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như sau: Khoảng 20 giờ 20 phút, ngày 23/01/2021, tại khu vực km 65 đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai thuộc khu 8, xã H, thị xã P, tỉnh Phú Thọ, Hoàng Anh D đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 8,6 kg pháo nổ để sử dụng bị Công an thị xã P kiểm tra, phát hiện và thu giữ. Lời nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với kết luận trưng cầu giám định, lời khai của người chứng kiến, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, phù hợp với thời gian, địa điểm nơi xảy ra vụ án và các tài liệu khác có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa. Như vậy, có đủ cơ sở và căn cứ pháp lý để kết luận bị cáo Hoàng Anh D đã phạm tội “Tàng trữ hàng cấm” theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 191 Bộ luật hình sự. Qua đó thấy rằng,Viện kiểm sát nhân dân thị xã P truy tố bị cáo về tội danh cũng như điều luật áp dụng là hoàn toàn đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Tại khoản 1 điều 191 Bộ luật hình sự quy định: “Người nào tàng trữ, vận chuyển hàng cấm thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 232, 234, 239, 244, 246, 249, 250, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) ..

c) Pháo nổ từ 06 kilôgam đến dưới 40 kilôgam;…” Đối với chị Nguyễn Thùy T là người bị cáo khai đã cho bị cáo số điện thoại của người bán pháo hoa nổ để bị cáo liên lạc mua pháo. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Phú thọ đã làm việc với chị Nguyễn Thùy T; chị T khai có đăng ký và sử dụng số điện thoại 036859068, quá trình sử dụng chị T đã bị mất điện thoại kèm sim số trên; bản thân chị T có mối quan hệ quen biết xã hội với D. Tuy nhiên chị T không thừa nhận nội dung chị giới thiệu, cho số điện thoại người bán pháo và cùng D đến chỗ hẹn mua pháo như D đã khai. Do chưa xác định được người bán pháo nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã P tiếp tục điều tra, làm rõ, xử lý sau là phù hợp.

Đối với người bán pháo cho D ngày 23/01/2021, D không biết tên, tuổi, địa chỉ; khi trao đổi mua bán pháo thì người này đeo khẩu T nên D không nhìn rõ mặt. Số điện thoại D liên lạc với người bán pháo là số 0982356077, kết quả điều tra xác định đăng ký chủ thuê bao là anh Nguyễn Minh H, sinh năm: 1992 trú tại cụm dân cư ô tô số 3, D, B, quận H, thành phố Hà Nội; Cơ quan điều tra Công an thị xã P đã tổ chức xác minh nhưng hiện anh H không có mặt tại địa phương, không xác định được H ở đâu, làm gì. Vì vậy, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã P tách riêng để điều tra, làm rõ, xử lý sau là phù hợp.

[3].Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội vì đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách quản lý kinh tế của nhà nước được pháp luật hình sự bảo vệ, gây bất bình trong nhân dân, làm mất trật tự trị an ở địa phương. Hơn nữa nó còn là mầm mống gây nên các hậu quả nghiêm trọng khác. Vì vậy, hành vi phạm tội của bị cáo cần phải được xử lý nghiêm để giáo dục bị cáo và làm gương cho những ai đã, đang có hành vi tương tự như bị cáo đã phạm.

Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, có sức khỏe, có hiểu biết xã hội nhưng không chịu làm ăn lương thiện mà có hành vi tàng trữ hàng cấm nên phải chịu hình phạt tương xứng với hành vi mà bị cáo gây ra. Song, khi quyết định hình phạt cũng cần xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo. Trước lần phạm tội này, bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú ổn định, rõ ràng. Bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là: sau khi phạm tội thành khẩn khai báo; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng được quy định tại điểm i, s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự và không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào nên hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội là chưa cần thiết mà chỉ cần áp dụng hình phạt tù cho hưởng án treo theo quy định tại điều 65 của Bộ luật hình sự dưới sự quản lý, giám sát của chính quyền địa phương và gia đình cũng đủ điều kiện giáo dục bị cáo trở thành người tốt có ích cho xã hội. Với mức hình phạt như Viện kiểm sát nhân dân thị xã P đề nghị áp dụng đối với bị cáo là phù hợp. Mức án đó cũng đủ điều kiện giáo dục bị cáo trở thành người tốt có ích cho xã hội.

[4].Về hình phạt bổ sung:

Tại khoản 4 Điều 191 Bộ luật hình sự: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”.

Xét thấy, bị cáo Hoàng Anh D không có tài sản sống cùng bố, mẹ, nghề nghiệp lao động tự do, thu nhập thấp nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp với điều kiện thực tế và quy định của pháp luật.

[5].Về vật chứng và các tài sản tạm giữ:

Các vật chứng và tài sản Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã P đã tạm giữ gồm:

Đối với 01 hộp cát tông, bên ngoài có dán các giấy niêm phong đều có chữ ký của những người tham gia và dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Phú Thọ, bên trong có 06 khối hộp là mẫu vật còn lại được hoàn trả sau khi giám định là vật nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu để tiêu hủy;

Đối với 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia 105 lắp sim số 0963787282 là điện thoại của bị cáo. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai nhận chiếc điện thoại trên dùng để liên lạc mua pháo nhưng chưa điều tra, xác minh, làm rõ được hành vi của người bán pháo. Cơ quan điều tra Công an thị xã P đã tách riêng để điều tra, xử lý sau nên cần tiếp tục tạm giữ chiếc điện thoại trên để điều tra xử lý sau. Do chiếc điện thoại trên, Cơ quan điều tra Công an thị xã P và Viện kiểm sát nhân dân thị xã P đã chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự thị xã P nên cần giao lại Cơ quan điều tra Công an thị xã P chiếc điện thoại trên để tạm giữ tiếp tục phục vụ điều tra làm rõ hành vi mua bán pháo là phù hợp.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu SYM ATILA BKS 19M1-00053, kết quả điều tra xác định là tài sản của chị Đinh Thị Lan H. Chị H không biết D mượn xe để phạm tội nên ngày 02/3/2021 Cơ quan điều tra Công an thị xã P đã trả lại xe cho chị H là chủ sở hữu là hợp pháp cần xác nhận.

[6].Về án phí: Bị cáo Hoàng Anh D phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 điều 191, điểm i, s khoản 1 điều 51; khoản 1, khoản 2 và khoản 5 điều 65 của Bộ luật Hình sự. Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Anh D phạm tội: “Tàng trữ hàng cấm”, phạt Hoàng Anh D 09 (Chín) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 (Mười tám) tháng, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Hoàng Anh D cho Ủy ban nhân dân phường P, thị xã P, tỉnh Phú Thọ để giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo Hoàng Anh D có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân phường P, thị xã P, tỉnh Phú Thọ trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trường hợp bị cáo Hoàng Anh D thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 điều 92 và điều 68 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, bị cáo Hoàng Anh D cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo Hoàng Anh D phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

-Về xử lý vật chứng và tài liệu, đồ vật tạm giữ: Áp dụng điểm a, c khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu của bị cáo Hoàng Anh D 01 hộp cát tông niêm phong kín, bên ngoài có dán các giấy niêm phong, trên mỗi giấy niêm phong đều có chữ ký của những người tham gia đóng gói niêm phong và 02 hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Phú Thọ, bên trong có 7,1 kg (Bẩy phẩy một kilôgam) pháo hoa nổ cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định để tiêu hủy;

Giao lại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã P 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia 105 màu xanh đen có số seri 35418510956158, lắp sim số 0963.787.282 của bị cáo Hoàng Anh D để tạm giữ tiếp tục điều tra và xử lý sau.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng đến Chi cục thi hành án dân sự thị xã P, tỉnh Phú Thọ ngày 14/4/2021).

Xác nhận ngày 02/3/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã P đã trả cho chị Đinh Thị Lan H 01 xe mô tô nhãn hiệu SYM ATILA BKS 19M1-00053 là hợp pháp.

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Hoàng Anh D phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có mặt có quyền kháng cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày giao hoặc niêm yết bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

280
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 24/2021/HS-ST ngày 26/05/2021 về tội tàng trữ hàng cấm

Số hiệu:24/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phú Thọ - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về