Bản án 24/2021/HSST ngày 16/03/2021 về tội cố ý gây thương tích

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XM, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 24/2021/HSST NGÀY 16/03/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 16 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở TAND huyện XM, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 02/2021/HSST ngày 12 tháng 01 năm 2021, đối với bị cáo:

TĐQ, sinh năm: 1965, tại Hà Tĩnh – ( Có mặt). Hộ khẩu thường trú: Tổ 1, ấp PH, xã HH, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Thiên chúa. Nghề nghiệp: Làm nông. Học vấn: 1/12. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại. Họ tên cha: TĐC, sinh năm: 1927 – ( Chết ). Họ tên mẹ: TTT, sinh năm: 1927. Họ tên vợ: LTHQ, sinh năm: 1975 và 03 con, lớn nhất sinh năm: 1994, nhỏ nhất sinh năm: 2005.

Người bị hại:

NVB, sinh năm: 1964 – ( Có mặt ). Hộ khẩu thường trú: Tổ 16, ấp PB, xã HH, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Chỗ ở: Tổ 3, ấp PH, xã HH, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại:

Luật sư PXH luật sư TNHT – Công ty luật TNHHMTV hãng luật TTXT – Đoàn luật sư tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

NTC, sinh năm: 1961 – ( Có mặt ). Hộ khẩu thường trú: Tổ 16, ấp PB, xã HH, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Chỗ ở: Tổ 3, ấp PH, xã HH, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Người làm chứng:

1. HĐT, sinh năm: 1971 – ( Vắng mặt ). Hộ khẩu thường trú: Tổ 9, ấp PH, xã HH, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

2. HĐH, sinh năm: 1967 – ( Có mặt ). Hộ khẩu thường trú: Tổ 7, ấp PB, xã HH, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

3. PDT, sinh năm: 1958 – ( Có mặt ). Hộ khẩu thường trú: Tổ 7, ấp ấp PB, xã HH, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

4. NTL, sinh năm: 1992 – ( Có mặt ). Hộ khẩu thường trú: Tổ 3, ấp PH, xã HH, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 9h00 ngày 07/5/2020, Q, H, T, T đi phát Q, mở rộng đường nông thôn theo kết quả vận động hiến đất mở rộng đường của ấp PH, xã HH đối với các hộ dân trên địa bàn trước đó. Khi đến đất của ông B ở tổ 1, ấp Phú Hoà, ông Hậu yêu cầu ông B chỉ ranh vào đất 03m để mở rộng đường thì ông B không đồng ý, chỉ đồng ý cho 02m. Q cho rằng con đường đi qua đất ông B trước đây rộng, nhưng do ông B trồng cây lấn ra dẫn đến đường hẹp lại nên giữa Q và ông B xảy ra cãi nhau. Lúc này, tay phải Q đang cầm cây rựa, Q chuyển rựa sang cầm tray trái và dùng tay phải nhặt một đoạn cây tươi dài 87cm, đường kính 02cm đánh ông B 02 cái, 01 cái trúng vào vai gáy bên trái, 01 cái vào hàm dưới bên trái của ông B gây thương tích thì được ông H, ông T, ông T can ngăn. Ông B được đưa đi cấp cứu, điều trị tại bệnh viện Bà Rịa đến ngày 29/5/2020 ra viện. Tại cơ quan điều tra, bị can đã khai nhận hành vi của mình như trên.

Tại bản kết luận giám định pháp y số: 226/TgT ngày 06/7/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu kết luận NVB: Gãy xương hàm dưới đã phẫu thuật, hiện ổn định, tỷ lệ thương tổn 8%. Ngày 14/8/2020, sau khi ông B và vợ là bà NTC có đơn yêu cầu giám định lại thương tích do không đồng ý với kết quả trên, Cơ quan điều tra ra Quyết định giám định lại. Ngày 10/9/2020, bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 4305/C09B của Phân viện khoa học hình sự Bộ Công an tại TP Hồ Chí Minh kết luận ông B: Gãy xương hàm dưới đã phẫu thuật, không ảnh hưởng tới chức năng, tỷ lệ thương tổn: 8%.

Vật chứng: 01 đoạn cây gỗ dài 87cm, đường kính 02cm hiện đang tạm giữ chuyển Chi cục Thi hành án dân sự huyện XM chờ xử lý.

Trách nhiệm dân sự: Ông B yêu cầu bồi thường thiệt hại với số tiền 143.407.428Đ ( Một trăm bốn mươi ba triệu bốn trăm linh bảy ngàn bốn trăm hai mươi tám ngàn ). Gồm các khoản:

- Tiền thuê xe đi cấp cứu, điều trị, làm việc với cơ quan điều tra: 9.950.000Đ (Chín triệu chín trăm năm mươi ngàn ).

- Chi phí cứu chữa và phục hồi sức khoẻ: 12.057.428Đ ( Mười hai triệu không trăm năm mươi bảy ngàn bốn trăm hai mươi tám đồng ).

- Cấp cứu tại Phòng khám Medic SaiGon: 90.000Đ ( Chín mươi ngàn ).

- Điều trị tại bệnh viện Bà Rịa: 4.234.573Đ ( Bốn triệu hai trăm ba mươi tư ngàn năm trăm bảy mươi ba đồng ).

- Điều trị tại bệnh viện chỉnh hình và phục hồi chức năng: 4.632.855Đ ( Bốn triệu sáu trăm ba mươi hai ngàn tám trăm năm mươi lăm đồng ).

- Điều trị tại bệnh viện Nhân dân: 1.250.000Đ ( Một triệu hai trăm năm mươi ngàn ).

- Mua thuốc tại quầy thuốc tây: 1.850.000Đ ( Một triệu tám trăm năm mươi ngàn ).

- Tiền ăn của ông B trong 05 tháng điều trị: 28.200.000Đ ( Hai mươi tám triệu hai trăm ngàn ). Trong đó:

+ Từ ngày 07/5 đến ngày 07/7/2020: 250.000Đ x 60 ngày = 15.000.000Đ (Mười lăm triệu ).

+ Từ ngày 08/7 đến ngày 07/8/2020: 200.000Đ x 30 ngày = 6.000.000Đ ( Sáu triệu ).

+ Từ ngày 08/8 đến ngày 07/10/2020: 120.000Đ x 60 ngày = 7.200.000Đ (Bảy triệu hai trăm ngàn ).

- Tiền ăn của vợ ông B trong thời gian chăm sóc ông B điều trị: 10.800.000Đ ( Mười triệu tám trăm ngàn ). Trong đó:

+ Từ ngày 07/5 đến ngày 07/7/2020: 90.000Đ x 60 ngày = 5.400.000Đ ( Năm triệu bốn trăm ngàn ).

+ Từ ngày 08/7 đến ngày 07/8/2020: 60.000Đ x 30 ngày = 1.800.000Đ ( Một triệu tám trăm ngàn ).

+ Từ ngày 08/8 đến ngày 07/10/2020: 60.000Đ x 60 ngày = 3.600.000Đ ( Ba triệu sáu trăm ngàn ).

- Tiền thu nhập bị mất, bị giảm sút của ông B từ ngày 07/5/2020 đến ngày 07/10/2020: 250.000/ngày x 150 ngày = 37.500.000Đ ( Ba mươi bảy triệu năm trăm ngàn ).

- Tiền công lao động của vợ ông B trong thời gian chăm sóc ông B, từ ngày 07/5/2020 đến ngày 07/10/2020: 150 ngày x 200.000Đ/ngày = 30.000.000Đ ( Ba mươi triệu ).

- Tiền bồi thường tổn thất tinh thần theo Điều 592 Bộ luật dân sự: 10 tháng lương cơ bản x 1.490.000Đ = 14.900.000Đ ( Mười bốn triệu chín trăm ngàn ).

Bị can cho rằng yêu cầu của bị hại là quá cáo nên không đủ khả năng bồi thường.

Cáo trạng số: 06/CT-VKS ngày 03/01/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã truy tố bị cáo TĐQ về tội: “ Cố ý gây thương tích ” theo Điểm a, Điểm i Khoản 1, Điều 134 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà hôm nay bị cáo đã khai nhận hành vi của mình như đã khai báo tại cơ quan điều tra và nội dung bản cáo trạng đã nêu, xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt. Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo chỉ đồng ý bồi thường cho ông B các khoản gồm:

- Tiền thuê xe đi cấp cứu, điều trị và làm việc với cơ quan điều tra: 9.950.000Đ (Chín triệu chín trăm năm mươi ngàn ).

- Chi phí cứu chữa và phục hồi sức khoẻ: 12.057.428Đ ( Mười hai triệu không trăm năm mươi bảy ngàn bốn trăm hai mươi tám đồng ).

Còn các khoản:

- Tiền ăn của ông B trong 05 tháng điều trị, tiền ăn của vợ ông B trong thời gian chăm sóc ông B điều trị, tiền thu nhập bị mất, bị giảm sút của ông B từ ngày 07/5/2020 đến ngày 07/10/2020, tiền công lao động của vợ ông B trong thời gian chăm sóc ông B, từ ngày 07/5/2020 đến ngày 07/10/2020, tiền bồi thường tổn thất tinh thần theo Điều 592 Bộ luật dân sự: 10 tháng lương cơ bản x 1.490.000Đ = 14.900.000Đ ( Mười bốn triệu chín trăm ngàn ). Thì bị cáo không đồng ý bồi thường theo yêu cầu của ông B, mà đề nghị HĐXX xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật.

Người bị hại ông B trình bày: Sau khi bị Q đánh một gậy thì không còn biết, không còn nhớ gì nữa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà C trình bày: Ông B nằm điều trị tại bệnh viện Bà Rịa từ ngày 07/5/2020 đến ngày 18/5/2020 thì xuất viện, sau đó gia đình tự ý đưa ông B đi lên bệnh viện ở TP Hồ Chí Minh mà không có chỉ định của bác sỹ.

Người làm chứng ông H, ông T khẳng định: Bị cáo đánh ông B 02 cái liên tiếp, sau khi được can ngăn thì không đánh thêm ông B nữa.

Anh L khẳng định: Anh L không chứng kiến việc bị cáo đánh ông B,sau khi ông B bị đánh xong anh L mới đến hiện trường.

Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm như cáo trạng đã nêu và đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo TĐQ phạm tội: “cố ý gây thương tích”. Áp dụng Điểm a, Điểm i Khoản 1 Điều 134; Điều 38; Điểm i, Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 06 tháng tù đến 08 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.

Trách nhiệm dân sự: Đề nghị ghi nhận sự thoả thuận của bị cáo và người bị hại về các khoản: Tiền thuê xe đi cấp cứu, điều trị và làm việc với cơ quan điều tra, tiền chi phí cứu chữa và phục hồi sức khoẻ. Còn các khoản tiền khác thì giải quyết theo quy định của pháp luật.

Về vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu huỷ khúc cây mà bị cáo dùng để đánh ông B.

Luật sư bảo về quyền và lợi ích hợp cho người bị hại không đồng ý với tội danh do Viện kiểm sát truy tố, mà cho rằng hành vi của bị cáo đã phạm tội: “ Giết người ” chưa đạt nên đề nghị trả hồ sơ để điều tra, truy tố bị cáo về tội: “ Giết người ”.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố người bị hại có đơn khiếu nại, nhưng đơn khiếu nại của người bị hại đã được giải quyết theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Tại phiên toà bị cáo TĐQ đã khai nhận: Ngày 07/5/2020 Q đã dùng đoạn cây đánh ông B 02 cái liên tiếp gây thương tích cho ông B.

Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng là ông H, ông T. Phù hợp với bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 4305/C09B của Phân viện khoa học hình sự Bộ Công an tại TP Hồ Chí Minh và các chứng cứ, tài liệu khác thu thập được trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ căn cứ kết luận: Lúc 9h00 ngày 07/5/2020 Q đã dùng đoạn cây tươi dài 87cm, đường kính 02cm đánh ông B 02 cái, 01 cái trúng vào vai gáy bên trái, 01 cái vào hàm dưới bên trái của ông B gây thương tích cho ông B, với tỷ lệ thương tích là 8%.

Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích cho người bị hại dựa vào lời khai của anh L, ông B để cho rằng hành vi của bị cáo đã phạm tội: “ Giết người ”, nhưng anh L không trực tiếp chứng kiến việc bị cáo đánh ông B. Ông B trình bày tại phiên toà sau khi bị đánh cây thứ nhất thì không còn biết, còn nhớ gì. Vì vậy, lời khai của anh L, ông B không phải là chứng cứ để đánh giá hành vi của bị cáo. Trong lúc phạm tội không có hành vi nào thể hiện việc bị cáo có ý định tước đoạt mạng sống của ông B. Quá trình điều tra cũng như tranh luận tại phiên toà luật sư cũng như người bị hại không chứng minh được ý thức tước đoạt mạng sống ông B của bị cáo. Do đó, Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội : “ Cố ý gây thương tích ” là có căn cứ, đúng người, đúng tội nên việc Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại đề nghị trả hồ sơ để điều tra, truy tố bị cáo về tội: “ Giết người ” là không có căn cứ. Vì vậy, HĐX không chấp nhận.

Hành vi của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sức khoẻ của người khác được pháp luật bảo vệ. Q đã dùng khúc cây là hung khí nguy hiểm để gây thương tích cho ông B. Mặc dù không có mâu thuẫn gì với ông B, mà chỉ cãi nhau trong việc xác định ranh đất để mở rộng đường mà bị cáo đã chủ động đánh ông B thể hiện tính chất côn đồ trong hành vi của bị cáo.Vì vậy, mặc dù tỷ lệ thương tích của ông B chỉ 8%, nhưng hành vi của bị cáo đã phạm vào tội: “ Cố ý gây thương tích ” được quy định tại Điểm a, Điểm i Khoản 1, Điều 134 Bộ luật hình sự.

Xét nhân thân bị cáo thì thấy: là người có sức khoẻ, có đầy đủ nhận thức về xã hội, ý thức được việc làm của mình là vi phạm pháp luật. Nhưng do coi thường sức khoẻ của người khác, coi thường pháp luật nên bị cáo đã phạm tội. Vì vậy cần xử lý nghiêm để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên xét thấy: Bị cáo phạm tội do bột phát, bản thân không có tiền án, tiền sự. Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Vì vậy, cũng xem xét giảm nhẹ một phần cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

Xét thấy, bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bản thân bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, ổn định nên không nhất thiết cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà giao bị cáo cho chính quyền địa phương giám sát, giáo dục cũng trở thành công dân tốt. Vì vậy, cho bị cáo được hưởng án treo.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên toà bị cáo bị cáo đồng ý bồi thường cho ông B các khoản gồm: Tiền thuê xe đi cấp cứu, điều trị và làm việc với cơ quan điều tra: 9.950.000Đ (Chín triệu chín trăm năm mươi ngàn ) và tiền chi phí cứu chữa và phục hồi sức khoẻ: 12.057.428Đ ( Mười hai triệu không trăm năm mươi bảy ngàn bốn trăm hai mươi tám đồng ). Nên hai khoản tiền này HĐXX ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo.

Đối với khoản tiền ăn và tiền thu nhập bị mất, bị giảm sút của ông B và vợ ông B, HĐXX thấy: Ông B và vợ ông B là người lao động phổ thông, tiền công lao động phổ thông tại địa phương hiện nay là 250.000Đ ( Hai trăm năm mươi ngàn )/ngày, trong đó đã bao gồm cả tiền ăn. Do đó, việc ông B, bà C yêu cầu bồi thường tiền công lao động là có căn cứ nên chấp nhận. Còn việc ông B yêu cầu bồi thường thêm tiền ăn trong thời gian điều trị là không có căn cứ nên không chấp nhận.

Về thời gian điều trị tại bệnh viện bà C thừa nhận điều trị từ ngày 07/5/2020 đến ngày 18/5/2020 thì xin ra viện. Nên tiền công lao động của bà C chỉ chấp nhận từ ngày 07/5/2020 đến ngày 18/5/2020 là 12 ngày. Còn sau đó đưa ông B đi bệnh viện tại TP Hồ Chí Minh đến ngày 29/5/2020 là do gia đình tự đưa đi, không có chỉ định của bác sỹ nên không chấp nhận khoảng thời gian này.

Đối với ông B, ngoài thời gian điều trị tại bệnh viện khi về nhà phải điều trị thêm không thể lao động ngay được nên buộc bị cáo bồi thường tiền công lao động cho ông B với thời gian 60 ngày là phù hợp.

Sau khi điều trị sức lao động của ông B bị giảm sút 8%, nên buộc bị cáo bồi thường phần giảm sút sức lao động cho ông B với thời gian 06 tháng.

Bị cáo gây thương tích cho ông B phần nào đã làm tinh thần ông B bị ảnh hưởng nên buộc bị cáo bồi thường bồi thường tổn thất cho ông B, với số tiền bằng 02 tháng lương tối thiểu là phù hợp.

[4] Về vật chứng: 01 đoạn cây gỗ dài 87cm, đường kính 02cm không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu huỷ.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Vì những lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo: TĐQ phạm tội: “ Cố ý gây thương tích ”.

[1] Áp dụng Điểm a, Điểm i Khoản 1 Điều 134; Điểm i, Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo: TĐQ: 08 ( Tám ) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 16 tháng tính từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo cho UBND xã HH, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Toà án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

( Đã giải thích chế định án treo ).

[2] Về vật chứng:

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu huỷ 01 đoạn cây gỗ dài 87cm, đường kính 02cm, hai đầu cây gỗ được gọt chéo.

( Vật chứng đang được quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng số: 33/BB ngày 08/01/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện XM ).

[3] Trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điểm b Khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự;

Điều 590 Bộ luật dân sự.

Buộc bị cáo Q bồi thường cho ông B các khoản sau đây:

- Tiền xe đi lại: 9.950.000Đ ( Chín triệu chín trăm năm mươi ngàn ).

- Chi phí cứu chữa và phục hồi sức khoẻ: 12.057.428Đ ( Mười hai triệu không trăm năm mươi bảy ngàn bốn trăm hai mươi tám đồng ).

- Tiền công lao động của ông B trong thời gian điều trị: 60 ngày x 250.000Đ = 15.000.000Đ ( Mười lăm triệu ).

- Tiền công của bà C trong thời gian chăm sóc ông B tại bệnh viện: 12 ngày x 250.000Đ = 3.000.000Đ ( Ba triệu ).

- Tiền giảm sút sức lao đông của ông B trong 06 tháng tính từ ngày 07/7/2020:

250.000Đ x 8% x 180 ngày = 3.600.000Đ ( Ba triệu sáu trăm ngàn ).

- Tiền bồi thường tổn thất tinh thần: 2.980.000Đ ( Hai triệu chín trăm tám mươi ngàn ).

Tổng cộng bị cáo Q phải bồi thường cho ông B là: 46.587.428Đ ( Bốn mươi sáu triệu năm trăm tám mươi bảy ngàn bốn trăm hai mươi tám đồng ).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 điều 468 Bộ luật dân sự.

[4] Về án phí: Bị cáo TĐQ phải nộp 200.000Đ ( Hai trăm ngàn ) án phí HSST và 2.329.000Đ ( Hai triệu ba trăm hai mươi chín ngàn ) án phí DSST.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án ho ặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,7A,7B và 9 Lu ật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân s ự.

[5] Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu TAND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 24/2021/HSST ngày 16/03/2021 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:24/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuyên Mộc - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về