Bản án 24/2020/HS-ST ngày 07/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

A ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V H, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 24/2020/HS-ST NGÀY 07/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 5 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện VH, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 24/2020/TLST-HS ngày 26 tháng 3 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2020/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 4 năm 2020, đối với bị cáo:

Bùi Ngọc D, tên gọi khác: không, sinh năm 1990, tại M Ch, Sơn La. Nơi cư trú: T K 19/5, thị trấn Nông trường M Ch, huyện M Ch, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; đảng phái, đoàn thể: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Bùi Tiến R và bà Vũ Thị Ng; bị cáo có vợ là Hà Thị Ch và 03 con; Con lớn nhất sinh năm 2012, con nhỏ nhất sinh năm 2019.

Tiền án, Tiền sự: không.

Bị bắt từ ngày 04/02/2020 cho đến nay. Có mặt.

Người có QLNVLQ: Chị Hà Thị Ch, sinh năm 1987; địa chỉ: T K 19/5, thị trấn Nông trường M Ch, huyện M Ch, tỉnh Sơn La. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 17 giờ 30 phút, ngày 04/02/2020, tại bản Ch Đ 1, xã VH, huyện VH, tỉnh Sơn La. Tổ công tác công an huyện VH kiểm tra phát hiện bắt quả tang Bùi Ngọc D tàng trữ trái phép chất ma túy. Tang vật thu giữ trong miệng của bị cáo là 01 gói nilon màu trắng, bên trong đựng 08 viên nén màu hồng, bề mặt mỗi viên đều có ký hiệu WY, Bùi Ngọc D khai nhận đó là Methamphetamine (Ma túy tổng hợp). Số ma túy trên D đã điều khiển xe máy BKS: 19L4- 4872 đến nhà một người đàn ông dân tộc Mông, không biết tên, địa chỉ, đưa cho người đàn ông này 500.000 đồng nhờ đi mua hộ ma túy để sử dụng. Người đàn ông đồng ý nhận tiền, lấy xe máy của D đi ra ngoài khoảng 02 tiếng sau quay lại đưa cho D một túi nilon màu trắng, bên trong chứa các viên Hồng Phiến. D nhận ma túy rồi trả công cho người này 02 viên Hồng Phiến. Sau đó, D ngậm gói ma túy vào miệng, điều khiển xe máy quay về đến bản Ch Đ 1 thì bị phát hiện bắt giữ. Cơ quan điều tra đã niêm phong vật chứng, tạm giữ của D 01 xe máy, kiểu dáng Dream, màu nâu, BKS 19L4 – 4872, số khung VDGDCG013DG004100, số máy VDG1P50FMG đã qua sử dụng; 01 Giấy đăng ký mô tô, xe máy số 0034109 mang tên Lê Văn Ngọc, nhãn hiệu QuikNewwave, số máy FMG00415928, số khung CHL22Y1001979, cấp ngày 26/12/2000 và dẫn giải bị cáo về Cơ quan điều tra để xử lý.

Cùng ngày, Cơ quan điều tra tiến hành cân tịnh 08 viên nén màu hồng thu giữ của Bùi Ngọc D xác định có khối lượng 0,76 gam, lấy toàn bộ làm mẫu gửi giám định, ký kiệu D.

Kết luận giám định số 301/KLMT ngày 10/02/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận "Mẫu gửi giám định ký hiệu D là ma túy; Loại Methamphetamine; Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,76 gam; Tổng khối lượng ma túy thu giữ được là 0,76 gam, Loại Methamphetamine. Hoàn lại 0,55 gam đối tượng giám định”

Cáo trạng số 23/CT-VKS ngày 26/3/2020 của VKSND huyện VH, truy tố Bùi Ngọc D về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 điều 249 BLHS. Tại phiên tòa, kiểm sát viên vẫn bảo vệ nội dung Cáo trạng truy tố bị cáo, đề nghị HĐXX xem xét: Tuyên bố Bùi Ngọc D phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy

* Áp dụng điểm c khoản 1 điều 249, điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt: Bùi Ngọc D từ 18 đến 21 tháng tù.

+ Không phạt bổ sung đối với bị cáo; áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự, điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu để tiêu huỷ: 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 0,55 gam Methamphetamine; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng vỏ gói niêm phong ban đầu, 01 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Bùi Ngọc D; 01 Giấy đăng ký mô tô, xe máy số 0034109 mang tên Lê Văn Ngọc, nhãn hiệu QuikNewwave, số máy FMG00415928, số khung CHL22Y1001979, cấp ngày 26/12/2000.

. + Trả lại gia đình bị cáo (đại diện là chị Hà Thị Ch, vợ bị cáo): 01 xe máy, kiểu dáng Dream, màu nâu, BKS 19L4 – 4872, số khung VDGDCG013DG004100, số máy VDG1P50FMG đã qua sử dụng;

+ Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Do nghiện ma túy, Bùi Ngọc D điều khiển xe máy của gia đình đi từ nhà đến bản Ch Đ 1, xã VH, huyện VH, vào nhà một người đàn ông dân tộc Mông không biết tên, không nhớ địa chỉ nhờ mua được 10 viên Hồng Phiến với giá 500.000 đồng, trả công cho người đàn ông 02 viên Hồng Phiến, trên đường quay về thì bị phát hiện bắt giữ. Hành vi của bị cáo đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 BLHS. Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án như Biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản ghi lời khai, hỏi cung, bản tự khai của bị cáo và lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa.

[2] Tính chất hành vi của bị cáo: Bị cáo nghiện ma túy, phạm tội nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma tuý. Cần xử phạt tù tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, nhân thân chưa có tiền án, tiền sự, nên được xem xét cho hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm s khoản 1 điều 51 BLHS.

[4] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện VH, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện VH, Kiểm sát viên trong qua trình điều tra, đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. HĐXX xét thấy, trong quá trình giải quyết vụ án Điều tra viên, Kiểm sát viên chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[5]Về phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 điều 249 BLHS, bị cáo còn có thể bị phạt tiền. Xét thấy bị cáo nghiện ma tuý, không có khả năng thi hành, nên không áp dụng phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6]Vật chứng của vụ án: 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 0,55 gam Methamphetamine; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng vỏ gói niêm phong ban đầu, 01 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Bùi Ngọc D; 01 Giấy đăng ký mô tô, xe máy số 0034109 mang tên Lê Văn Ngọc, nhãn hiệu QuikNewwave, số máy FMG00415928, số khung CHL22Y1001979, cấp ngày 26/12/2000 (Không thuộc giấy đăng ký xe của bị cáo bị tạm giữ), là những vật bị cấm lưu hành hoặc không có giá trị sử dụng, cần tuyên tịch thu để tiêu hủy.

01 xe máy, kiểu dáng Dream, màu nâu, BKS 19L4 – 4872, số khung VDGDCG013DG004100, số máy VDG1P50FMG đã qua sử dụng được bị cáo dùng vào việc phạm tội, là tài sản chung thuộc quyền sở hữu của gia đình bị cáo, gia đình bị cáo không biết và không liên quan đến việc phạm tội của bị cáo, cần tuyên trả lại gia đình bị cáo, đại diện là chị Hà Thị Ch (vợ bị cáo).

[7]Về nguồn gốc chất ma túy: Người đàn ông dân tộc Mông đã mua hộ ma túy cho bị cáo, bị cáo không biết tên, không nhớ địa chỉ, Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý trong vụ án này.

Bị cáo phạm tội, phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 điều 249, điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự;

1. Tuyên bố bị cáo Bùi Ngọc D phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt: Bùi Ngọc D 21 (Hai mươi mốt) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tình từ ngày 04/02/2020.

Không áp dụng phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về vật chứng: Áp dụng các điểm c khoản 1, khoản 2 điều 47 BLHS, điểm a, c khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu để tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 0,55 gam Methamphetamine; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng vỏ gói niêm phong ban đầu, 01 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Bùi Ngọc D; 01 Giấy đăng ký mô tô, xe máy số 0034109 mang tên Lê Văn Ngọc, nhãn hiệu QuikNewwave, số máy FMG00415928, số khung CHL22Y1001979, cấp ngày 26/12/2000.

+ Trả lại gia đình bị cáo (đại diện là chị Hà Thị Ch): 01 xe máy, kiểu dáng Dream, màu nâu, BKS 19L4 – 4872, số khung VDGDCG013DG004100, số máy VDG1P50FMG đã qua sử dụng;

Theo biên bản giao vật chứng số: 43/BBVC, ngày 26 tháng 3 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện VH.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có QLNVLQ có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

162
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 24/2020/HS-ST ngày 07/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:24/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vân Hồ - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về