Bản án 24/2020/HS-ST ngày 03/02/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 24/2020/HS-ST NGÀY 03/02/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 482/2019/TLST-HS ngày 31 tháng 12 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2020/HSST-QĐ ngày 20 tháng 01 năm 2020 đối với bị cáo:

Bùi Huỳnh Ngọc Công S, sinh năm 1990 tại tỉnh Ninh Thuận; thường trú: Thôn L C, xã H H, huyện N H, tỉnh Ninh Thuận; chỗ ở: Số 63A đường Ố N, tổ MH, khu phố T H, phường Đ H, thị xã D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; con ông Bùi Ngọc Kh, sinh năm 1966 và bà Huỳnh Thị Nh, sinh năm 1967; bị cáo có 02 em ruột, lớn sinh năm 1996, nhỏ sinh năm 2000; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam ngày 09/9/2019 cho đến nay, có mặt.

* Người tham gia tố tụng khác:

- Người làm chứng:

1. Bà Thị Kim S, sinh năm 1996; vắng mặt.

2. Ông Trần Chí H, sinh năm 1996; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bùi Huỳnh Ngọc Công S là người sử dụng trái phép chất ma túy. Khoảng 02 giờ 30 phút ngày 09/9/2019, S đi đến khu vực chùa Th Qu, phường Đ H, thị xã D A, tỉnh Bình Dương gặp và mua của một người đàn ông tên H (không rõ nhân thân, lai lịch) 01 gói nilon miệng kéo dính chứa ma túy với giá 400.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, S đi về dãy trọ của mình tại số 63A đường Ố N, khu phố T H, phường Đ H, thị xã D A, tỉnh Bình Dương để sử dụng. Tuy nhiên, S không về phòng trọ của mình mà S đi vào phòng trọ của Trần Chí H và Thị Kim S kế bên rủ nhau sử dụng ma túy đá. Lúc này, S đi vào nhà vệ sinh lấy một ít ma túy đá ra bỏ vào trong bộ dụng cụ sử dụng, số còn lại cất giấu trong túi quần của mình. Sau đó cả 03 người sử dụng ma túy rồi ngủ đến sáng.

Khoảng 08 giờ 30 phút cùng ngày, Công an phường Đ H kiểm tra hành chính phòng trọ của H, S phát hiện phòng trọ của H, S có biểu hiện sử dụng ma túy đá nên mời cả 03 về Công an phường làm việc. Tại Công an phường Đ H tiến hành kiểm tra người, phát hiện trong túi quần bên trái đang mặc trên người của S có 01 bịch nilon hàn kín chứa tinh thể màu trắng, S khai nhận là ma túy đá của mình nên Công an tiến hành lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang cùng tang vật. Riêng H, S không biết Sinh cất giấu ma túy trong người.

Vật chứng thu giữ: 01 (một) gói nilon hàn kín chứa tinh thể màu trắng và 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy.

Căn cứ Kết luận giám định số: 685/MT-PC09 ngày 13 tháng 9 năm 2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng gửi đến giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,7891 gam.

Quá trình điều và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì các Kết luận giám định số: 685/MT-PC09 ngày 13 tháng 9 năm 2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương.

Đối với người đàn ông tên H đã bán ma túy cho Bùi Huỳnh Ngọc Công S, hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã D A, tỉnh Bình Dương đang tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Đối với Trần Chí H và Thị Kim S không biết Bùi Huỳnh Ngọc Công S cất giấu ma túy trong người nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã D A, tỉnh Bình Dương không đề cập xử lý. Tuy nhiên, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã D A, tỉnh Bình Dương ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Hải và Sang mỗi người 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Cáo trạng số: 37/CT-VKS ngày 30 tháng 12 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Bùi Huỳnh Ngọc Công S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Bùi Huỳnh Ngọc Công S từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

* Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 (một) bì thư bên trong chứa ma túy loại Methamphetamine, có khối lượng sau giám định 0,6746 gam và 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy là vật cấm lưu thông, công cụ sử dụng vào việc phạm tội nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo không có ý kiến tranh luận với Viện kiểm sát về điều luật áp dụng, khung hình phạt và xử lý vật chứng đồng thời bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Căn cứ vào lời khai của bị cáo; người làm chứng; biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang và các chứng cứ tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, xác định: Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 09/9/2019, tại nhà trọ số 63A đường Ố N, khu phố T H, phường Đ H, thị xã D A, tỉnh Bình Dương. Lực lượng Công an phường Đ H, thị xã D A, tỉnh Bình Dương kiểm tra hành chính phát hiện trong túi quần bên trái đang mặc trên người của Bùi Huỳnh Ngọc Công S có 01 bịch nilon hàn kín chứa tinh thể màu trắng, Sinh khai nhận là ma túy của mình nên Công an tiến hành lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang cùng tang vật.

Căn cứ Kết luận giám định số: 685/MT-PC09 ngày 13 tháng 9 năm 2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng gửi đến giám đinh là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,7891 gam.

[3] Như vậy, hành vi trên đây của bị cáo Bùi Huỳnh Ngọc Công S tàng trữ ma túy có khối lượng 0,7891 gam, loại Methamphetamine, mục đích tàng trữ để sử dụng đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do đó, Cáo trạng số: 37/CT-VKS ngày 30 tháng 12 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố bị cáo Bùi Huỳnh Ngọc Công S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; bị cáo hoàn toàn đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

[4] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là nghiêm trọng, đã xâm phạm vào sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma tuý, gây tác hại cho xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Để có ma túy sử dụng mà bị cáo đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho gia đình, xã hội và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

[5] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có cha ông Bùi Ngọc Kh là thương binh 2/4. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[7] Về nhân thân: Bị cáo là người chưa có tiền án, tiền sự và công nhân lao động. Tuy nhiên, bị cáo là người sử dụng trái phép chất ma túy nên cũng cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[8] Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Xét bị cáo phạm tội nghiêm trọng, đã xâm phạm vào sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma tuý, gây tác hại cho xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương, ma túy là tiền đề của các tội trộm cắp, cướp giật, giết người và nhiều tội phạm khác đồng thời bị cáo sử dụng trái phép chất ma túy. Vì vậy Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo thành những công dân có ích cho gia đình, xã hội và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

- Hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên, áp dụng phạt tù cũng đủ để răn đe, giáo dục bị cáo nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[9] Về xử lý vật chứng: Xét 01 (một) bì thư bên trong chứa ma túy loại Methamphetamine, có khối lượng sau giám định 0,6746 gam và 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy là vật cấm lưu thông, công cụ sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy.

[10] Đối với người đàn ông tên Hoàng đã bán ma túy cho Bùi Huỳnh Ngọc Công S, hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã D A, tỉnh Bình Dương đang tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau và đối với Trần Chí Hải và Thị Kim Sang không biết Bùi Huỳnh Ngọc Công S cất giấu ma túy trong người nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã D A, tỉnh Bình Dương không đề cập xử lý. Tuy nhiên, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với H và S mỗi người 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là đúng theo quy định của pháp luật.

[11] Xét đề nghị Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo và xử lý vật chứng là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[12] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Bùi Huỳnh Ngọc Công S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Bùi Huỳnh Ngọc Công S 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09/9/2019.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì thư bên trong chứa ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng sau giám định 0,6746 gam và 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 31/12/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An với Chi cục thi hành án dân sự thị xã Dĩ An).

3. Về án phí sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Bùi Huỳnh Ngọc Công S phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 24/2020/HS-ST ngày 03/02/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:24/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về