Bản án 24/2019/HNGĐ-ST ngày 30/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ T, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 24/2019/HNGĐ-ST NGÀY 30/05/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 30 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã T tiến hành phiên tòa sơ thẩm công khai xét xử vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 46/2019/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 3 năm 2019 về việc ly hôn, tranh chấp nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 4 năm 2019, giữa:

- Nguyên đơn: Bà Hồ Thị Kim N, sinh năm 1980; địa chỉ: Số nhà 126, tổ 5, khu phố B, phường K, thị xã T, tỉnh Bình Dương. Có mặt.

- Bị đơn: Ông Hồ Ngọc T, sinh năm 1976; địa chỉ: Số nhà 126, tổ 5, khu phố B, phường B, thị xã T, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 18/01/2019 trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn bà Hồ Thị Kim N trình bày:

Về hôn nhân: Bà Hồ Thị Kim N và ông Hồ Ngọc T tự tìm hiểu và tiến đến kết hôn, không bị ai lừa dối, ép buộc. Bà N và ông T có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã (nay là phường) K, thị xã T, tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận kết hôn số 26, quyển số 28 ngày 28/02/2003. Vợ chồng sống hạnh phúc được thời gian và có hai con chung. Đến khoảng đầu năm 2015, vợ chồng bà N bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, kinh tế gia đình khó khăn nên vợ chồng thường xuyên cãi vã. Bà N và ông T đã nhiều lần cố gắng hòa giải và gia đình cha mẹ hai bên cũng khuyên răn, động viên nhưng không có kết quả. Đến năm 2017, để tránh việc vợ chồng cãi nhau làm ảnh hưởng đến các con nên bà N đã dẫn hai con về xã H, thị xã T sinh sống cho đến nay. Trong suốt thời gian vợ chồng ly thân, một mình bà N nuôi dạy và chăm sóc các con, ông T không phụ giúp, không cấp dưỡng nuôi con. Bà N nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà N yêu cầu được ly hôn với ông T.

Về con chung: Bà N và ông T có hai con chung tên Hồ Ngọc Q, sinh ngày 09/10/2003 và Hồ Thị Kim N1 sinh ngày 05/11/2005. Sau khi ly hôn, bà N yêu cầu được trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng hai con chung, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Hồ Ngọc T đã được đã được Tòa án tống đạt, niêm yết đầy đủ các văn bản tố tụng theo quy định để tham gia làm việc, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải và tham gia phiên tòa. Tuy nhiên, ông T không đến Tòa án, cũng không nộp văn bản ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của N đơn, không cung cấp các tài liệu, chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Theo biên bản xác minh ngày 19/3/2019 tại Công an phường Khánh Bình, thị xã T, tỉnh Bình Dương: Đương sự Hồ Ngọc T, sinh năm 1976 có đăng ký hộ khẩu thường trú tại tổ 5, khu phố B, phường K, thị xã T, tỉnh Bình Dương.

Theo Biên bản xác minh ngày 19/3/2019 tại UBND phường K, thị xã T, tỉnh Bình Dương: Bà Hồ Thị Kim N và ông Hồ Ngọc T có đăng ký kết hôn tại UBND phường K, thị xã T, tỉnh Bình Dương và được UBND xã (nay là phường) K, huyện (nay là thị xã) T cấp giấy chứng nhận kết hôn số 26, quyển số 28 ngày 28/02/2003. Trong suốt thời gian bà N và ông T sống tại địa phương thì bà N và ông T chưa từng trình báo địa phương về mâu thuẫn gia đình nên địa phương không nắm rõ.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã T tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm như sau:

Về tố tụng: Tòa án nhân dân thị xã T thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền, đảm bảo thời hạn chuẩn bị xét xử theo quy định. Quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán đã tiến hành đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng đã tuân theo và hực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm. Đại diện viện kiểm sát không có yêu cầu và kiến nghị khắc phục vi phạm tố tụng.

Về nội dung: Bà Hồ Thị Kim N và ông Hồ Ngọc T kết hôn và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã (nay là phường) K, thị xã T, tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận kết hôn số 26, quyển số 28 ngày 28/02/2003 là hôn nhân hợp pháp. Bà N xác định vợ chồng đã ly thân từ năm 2017, vợ chồng không còn yêu thương, chăm sóc nhau, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, bà N yêu cầu ly hôn ông T là có căn cứ. Về con chung, bà N yêu cầu được nuôi dưỡng hai con chung tên Hồ Ngọc Q, sinh ngày 09/10/2003 và Hồ Thị Kim N1, sinh ngày 05/11/2005 là có căn cứ. Bởi lẽ, hai con chung hiện đang sống cùng bà N và có bản tự khai ghi ý chí mong muốn được sống cùng với bà N, đồng thời bà N đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc con chung đảm bảo phát triển về mọi mặt. Bà N không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét. Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu giải quyết nên không xem xét. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của N đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Tòa án đã triệu tập hợp lệ bị đơn ông Hồ Ngọc T để tham gia làm việc, hòa giải, tiếp cận công khai chứng cứ và tham gia phiên tòa nhưng ông Hồ Ngọc T đều vắng mặt không có lý do và không cung cấp bất cứ tài liệu chứng cứ gì, không có ý kiến về việc giải quyết vụ án là vi phạm nghĩa vụ của đương sự, tự từ bỏ quyền và nghĩa vụ chứng minh của mình nên Hội đồng xét xử căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ để giải quyết vụ án theo quy định pháp luật.

Đây là phiên tòa mở lần thứ hai, bị đơn ông Hồ Ngọc T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không lý do. Do vậy, Hội đồng xét xử xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Hồ Thị Kim N và ông Hồ Ngọc T có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã (nay là phường) K, thị xã T, tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận kết hôn số 26, quyển số 28 ngày 28/02/2003, là hôn nhân hợp pháp. Bà N xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống hôn nhân không hạnh phúc nên yêu cầu ly hôn. Xét thấy, quá trình tố tụng tại Tòa án, ông T không đến Tòa án cho thấy ông T không thiện chí hòa giải để vợ chồng đoàn tụ, đồng thời bà N kiên quyết ly hôn. Do vậy, có căn cứ xác định tình trạng hôn nhân bà N và ông T mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài nên việc bà N yêu cầu ly hôn với ông T là có căn cứ theo quy định tại Điều 51 và Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Bà N yêu cầu được nuôi dưỡng hai con chung gồm: Hồ Ngọc Q sinh ngày 09/10/2003 và Hồ Thị Kim N1 sinh ngày 05/11/2005. Xét thấy, hai con chung hiện tại đang sống cùng bà N, bà N có công việc, thu nhập ổn định đủ điều kiện để trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, đồng thời hai con chung có bản tự khai thể hiện nguyện vọng được sống cùng bà N. Do vậy, yêu cầu nuôi hai con chung của bà N là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con chung: Bà N không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con. Đây là ý chí tự nguyện của bà N nên Tòa ghi nhận.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6] Đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp.

[7] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Hồ Thị Kim N phải chịu theo quy định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

V các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 147, Điều 227, Điều 266, Điều 269, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Về hôn nhân: Bà Hồ Thị Kim N được ly hôn với ông Hồ Ngọc T.

2. Về con chung: Giao 02 (hai) con chung gồm: Hồ Ngọc Q, sinh ngày 09/10/2003 và Hồ Thị Kim N1, sinh ngày 05/11/2005 cho bà Hồ Thị Kim N trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Ông Hồ Ngọc T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Bà Hồ Thị Kim N và ông Hồ Ngọc T đều có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trường hợp, người không trực tiếp nuôi con làm dụng quyền thăm nom con để gây cản trở hoặc ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi dưỡng con chung có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con chưa thành niên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con khi có đơn yêu cầu.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Hồ Thị Kim N phải chịu 300.000 đồng, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0014809 ngày 06/3/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã T, tỉnh Bình Dương.

5. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yều cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

173
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 24/2019/HNGĐ-ST ngày 30/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:24/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về