Bản án 24/2018/HSST ngày 04/04/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 2, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 24/2018/HSST NGÀY 04/04/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 04 tháng 4 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh (Số 1400 đường Đồng Văn Cống, phường Thạnh Mỹ Lợi, Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh) đã xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 21/2018/HSST ngày 19 tháng 03 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ ra xét xử số 28/2018/QĐXXST-HS ngày 20/03/2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Quốc T, giới tính: Nam; sinh năm: 1992; tại: Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: đường N, phường P, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: đường D, phường Đ, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh;

nghề nghiệp: Bảo vệ; trình độ học vấn: 12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Quốc K, sinh năm 1957 và bà Võ Thị Thu H, sinh năm 1961; bị cáo chưa có vợ; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 17/9/2017, đến ngày 19/9/2017 được thay thế biện pháp ngăn chặn tạm giữ thành biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú tại địa chỉ: đường D, phường Đ, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại: Anh Lê Hữu T, sinh năm: 1990, địa chỉ: Đường A, Khu phố 1, phường B, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

* Người bào chữa cho bị cáo: Ông Lê Huyền Đức – Luật sư Văn phòng Luật sư Nguyệt Hà thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trước đây, Nguyễn Quốc T làm nhân viên cho Công ty Bảo vệ Bình An và được phân công nhiệm vụ bảo vệ Công ty Cổ phần ô tô PM (tại đường C2, khu công nghiệp CL, phường TML, Quận X), quá trình làm bảo vệ tại đây T có mâu thuẫn cá nhân với một vài nhân viên trong công ty nên T tự nghỉ việc. Sau đó T xin vào làm nhân viên cho Công ty Bảo vệ QM và làm nhân viên kiểm tra ở khu vực tỉnh Bình Dương. Khoảng 23 giờ 00 phút ngày 15/9/2017, sau khi nhậu chung với một số người bạn tại tỉnh Bình Dương thì T nảy sinh ý định đến Công ty Cổ phần ô tô PM lấy trộm tài sản. Do vậy, T mang theo 01 túi xách màu đỏ hiệu BIDV rồi đón xe taxi từ thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương đến Công ty Cổ phần ô tô PM. Khi đến nơi vào khoảng 00 giờ 35 phút ngày 16/9/2017, T leo rào phía sau chốt bảo vệ rồi đến bãi giữ xe nhân viên, T lấy 01 nón bảo hiểm đội lên đầu và 01 chiếc khẩu trang đeo vào mặt rồi mở cửa phụ Công ty Cổ phần ô tô PM đi vào trong. T đến cầu dao tổng tắt điện rồi đi ra khu hành chính ở tầng trệt lấy 02 máy tính xách tay để trong hộc bàn, tiếp tục lên lầu 01 vào phòng làm việc của các nhân viên lấy thêm 05 máy tính xách tay, 01 đồng hồ đeo tay, 01 máy sạc Toshiba Hi-Speed Port Replicator II, 01 điện thoại di động hiệu HTC, 01 con chuột không dây hiệu Logitech, 01 con chuột không dây hiệu Ensoho, 01 dây sạc máy tính hiệu Toshiba, 01 dây sạc máy tính hiệu Dell65W, 01 dây sạc máy tính hiệu Dell Pa12 bỏ vào túi xách màu đỏ hiệu BIDV đi ra ngoài bằng đường cũ rồi đón xe taxi tẩu thoát. Toàn bộ số tài sản này đang thuộc sự quản lý của Công ty TNHH Dịch vụ Bảo vệ QM và đã giao cho anh Lê Hữu T làm người đại diện cho Công ty có trách nhiệm trông coi, quản lý tài sản. Sau đó, T đến một khách sạn trên đường Phan Xích Long thuê phòng ngủ đến 10 giờ thì trả phòng rồi đi đến đường Trần Quang Khải, phường Tân Định, Quận 1 chơi game.

Đến 19 giờ ngày 16/9/2017, bà Võ Thị Thu H là mẹ ruột của Nguyễn Quốc T tìm được T và dẫn T đến Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an Quận 2 đầu thú khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và giao nộp toàn bộ tài sản đã lấy trộm được.

Tang vật thu giữ:

- 01 (một) máy vi tính xách tay hiệu Dell Inspiron màu bạc, mã máy27427987190 (đã qua sử dụng).

- 01 (một) máy vi tính xách tay hiệu Dell Inspiron 15-5547 màu đen bạc(đã qua sử dụng).

- 01 (một) máy vi tính xách tay hiệu Dell Inspiron 15 màu đen, mã máy 26695217990 (đã qua sử dụng).

- 01 (một) máy vi tính xách tay hiệu Dell màu đen bạc có dán keo, mã máy 24162764032 (đã qua sử dụng).

- 01 (một) máy vi tính xách tay hiệu Dell Vostro 3550, mã máy36353183221 (đã qua sử dụng).

- 01 (một) máy vi tính xách tay hiệu Dell màu đen, mã máy 6261476258 (đã qua sử dụng).

- 01 (một) máy vi tính xách tay hiệu Toshiba Tecra R840 màu đen, mã máy G66C0002G810 (đã qua sử dụng).

- 01 (một) trạm sạc hiệu Toshiba Hi-Speed Port Replicator II màu đen, mã số PA3916A-1RRP (đã qua sử dụng).

- 01 (một) đồng hồ đeo tay hiệu U-BOAT (đã qua sử dụng).

- 01 (một) điện thoại di động hiệu HTC (đã qua sử dụng).

- 01 (một) con chuột máy vi tính loại không dây hiệu Logitech (đã qua sử dụng).

- 01 (một) con chuột máy vi tính loại không dây hiệu Ensoho (đã qua sử dụng).

- 01 (một) dây sạc máy vi tính hiệu Toshiba (đã qua sử dụng).

- 01 (một) dây sạc máy vi tính hiệu Dell65W (đã qua sử dụng).

- 01 (một) dây sạc máy vi tính hiệu Dell Pa12 (đã qua sử dụng).

- 01 (một) túi xách màu đỏ hiệu BIDV.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 256 ngày 10/11/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thuộc Ủy ban nhân dân Quận 2 thì tổng giá trị tài sản do T chiếm đoạt là 37.540.000 đồng.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu gì thêm.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình như trên, bị cáo đồng ý với các kết luận giám định và không có ý kiến gì khác.

Bản Cáo trạng số 21/CT-VKS ngày 26 tháng 02 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 2 đã truy tố bị cáo Nguyễn Quốc T về tội “Trộm cắp tài sản” theo Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999 đã được sửa đổi bổ sung năm 2009.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận:

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng đã nêu. Đây là vụ án do Nguyễn Quốc T thực hiện hành vi trộm cắp tài sản là máy vi tính xách tay, trạm sạc, chuột máy tính, đồnghồ, điện thoại với tổng giá trị thông qua định giá là 37.540.000 đồng. Hành vi của Thịnh đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” và cần phải xử lý nghiêm.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thànhkhẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trườnghợp ít nghiêm trọng, bị cáo phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại, bị cáo ra đầu thú, bị cáo bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, phía bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt theo điểm g, h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999, đã được sửa đổi bổ sung năm 2009. Đồng thời do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có việc làm, có nơi cư trú ổn định nên đề nghịáp dụng thêm Điều 60 Bộ luật Hình sự năm 1999, đã được sửa đổi bổ sung năm2009 cho bị cáo được hưởng án treo cũng đủ giáo dục đối với bị cáo.

Về vật chứng:

- Đối với các tài sản mà T chiếm đoạt: Đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

- Đối với 01 túi xách màu đỏ hiệu BIDV: Đây là công cụ, phương tiện bịcáo sử dụng để phạm tội nên đề nghị tịch thu, tiêu hủy.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận 2 vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm g, h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 60 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Quốc T từ 06 đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là tù 01 năm đến 01 năm 06 tháng.

Luật sư Lê Huỳnh Đức phát biểu tranh luận: Thống nhất với tội danh và khung hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát nêu ra đối với bị cáo. Tuy nhiên xin Hội đồng xét xử xem xét thêm các tình tiết giảm nhẹ như bị cáo đã từng đi bộ đội Trường Sa, bị cáo xuất thân trong gia đình có truyền thống cách mạng, việc phạm tội là do hạn chế về nhận thức xã hội và nhận thức về pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo hưởng mức án treo thấp nhất mà Viện kiểm sát đề nghị để tạo điều kiện bị cáo tiếp tục lao động cải tạo bản thân và phụ giúp gia đình.

Bị cáo không tranh luận và nói lời sau cùng: Bị cáo rất ăn năn, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và cho bị cáo được hưởng án treo để có cơ hội làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về hành vi:

Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Quốc T thừa nhận vào 00 giờ 35 ngày 16/9/2017 đã có hành vi lén lút trộm cắp tài sản là máy vi tính xách tay, trạm sạc, chuột máy tính, đồng hồ, điện thoại với tổng giá trị thông qua định giá là 37.540.000 đồng.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của người bị hại, lời khai của người làm chứng ... và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Quốc T đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 138 Bộ luật Hình sự như kết luận của Kiểm sát viên.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến trật tự công cộng, làm mất trật tự an toàn xã hội gây tâm lý lo lắng trong quần chúng nhân dân, xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Hội đồng xét xử xét thấy cần phải xử phạt bị cáo với mức án nghiêm mới có tác dụng giáo dục bị cáo nói riêng và đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung trong xã hội.

Về tình tiết tăng nặng định khung hình phạt:

Hành vi của bị cáo không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng khác nên chỉ bị xét xử ở khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự.

Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự khác. Xét trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại, bị cáo ra đầu thú, bị cáo bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, phía bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g, h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự 1999, đã được sửa đổi bổ sung năm 2009, nên áp dụng cho bị cáo khi lượng hình.

Đồng thời, xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, bị cáo bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, bị cáo có nơi cư trú và việc làm ổn định nên Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát, áp dụng thêm Điều 60 Bộ luật Hình sự cho bị cáo được hưởng án treo cũng đủ tác dụng giáo dục và răn đe đối với bị cáo, tạo điều kiện cho bị cáo tiếp tục sinh sống ổn định, thể hiện tính nhân đạo của pháp luật. Xét lời bào chữa của Luật sư phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận toàn bộ lời bào chữa của Luật sư.

Về vật chứng: Các tài sản mà T chiếm đoạt đã được thu hồi và trả cho bị hại là đúng quy định của pháp luật.

Đối với 01 túi xách màu đỏ hiệu BIDV. Đây là công cụ, phương tiện bị cáo sử dụng để phạm tội và không có giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu gì thêm,nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo, người bị hại được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ nêu trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quốc T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm g, h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều60 Bộ luật Hình sự năm 1999, đã được sửa đổi bổ sung năm 2009:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc T 06 (sáu) tháng tù ,nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách là 01 (một) năm, tính từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường Đ, Quận E, Thành phố Hồ ChíMinh giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp bị cáo T thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Thi hành án hình sự.

2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015:Tịch thu tiêu hủy: 01 túi xách màu đỏ hiệu BIDV.

(Theo quyết định chuyển vật chứng số 11/QĐ-VKS ngày 26/02/2018 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 2)

3. Về án phí:

Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng về án phí, lệ phí Tòa án:

Buộc bị cáo Nguyễn Quốc T nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. “Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết hợp lệ bản án./.

(Đã giải thích chế định án treo cho bị cáo rõ)

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

257
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 24/2018/HSST ngày 04/04/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:24/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 2 (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về