Bản án 240/2020/HSPT ngày 19/09/2020 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 240/2020/HSPT NGÀY 19/09/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Vào ngày 19 tháng 9 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 136/2020/TLPT-HS ngày 26 tháng 02 năm 2020 đối với cáo Huỳnh Tấn P và đồng phạm b Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Giết người”. Do có kháng cáo của các bị cáo, đại diện bị hại và kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 04/2020/HS-ST ngày 14-01-2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên.

Bị cáo có kháng cáo và kháng nghị:

1. Huỳnh Tấn P (tên gọi khác: Sáu P), sinh năm 1983; tại tỉnh Phú Yên. Nơi cư trú: Khu phố L 1, phường 9, thành phố T, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Tấn L, sinh năm 1950 và à Lương Th T, sinh năm 1949; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 17 /9/2013, Công an phường 9, thành phố T, tỉnh Phú Yên xử phạt vi phạm hành chính 150.000 đồng về hành vi đánh nhau gây mất trật tự công cộng; tạm giam ngày 09/4/2019; có mặt

Các bị cáo có kháng cáo:

1. Phạm Văn C (tên gọi khác: C), sinh năm 1995; tại tỉnh Phú Yên. Nơi cư trú: Khu phố N 6, phường 9, thành phố T, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn H, sinh năm 1971 và à Phan Th L, sinh năm 1971; tiền án: Ngày 26/02/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên xử phạt 02 năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 04 năm về tội “Cố ý gây thương tích” theo Khoản 3, Điều 104 Bộ luật Hình sự năm 1999; tiền sự: Không; tạm giam ngày 09/4/2019; có mặt.

2. Nguyễn Xuân L (tên gọi khác: Tý L, Tý A),sinh năm 1997; tại tỉnh Phú Yên. Nơi cư trú: Khu phố N 6, phường 9, thành phố T, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (văn hóa): 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Xuân M, sinh năm 1976 và à Nguyễn Th Kim Y, sinh năm 1978; tiền án: Ngày 26/02/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên xử phạt 04 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” theo Khoản 3 Điều 104 Bộ luật Hình sự 1999, chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/4/2018; tiền sự: Không; tạm giam từ ngày 09/4/2019; có mặt.

3. Phan Tiến Đ, sinh năm 1997; tại tỉnh Phú Yên; nơi cư trú: thành phố T, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan D, sinh năm 1972 và à Nguyễn Th Minh H, sinh năm 1972; tiền án, tiền sự: Không; tạm giam ngày 10/4/2019; có mặt.

4. Phan Tấn T (tên gọi khác: T),sinh năm 1990; tại tỉnh Phú Yên. Nơi cư trú: Khu phố N 6, phường 9, thành phố T, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: Thợ Sơn; trình độ văn hóa (học vấn): 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan T, sinh năm 1952 và à Nguyễn Th Bạch T, sinh năm 1958; tiền án, tiền sự: Không; tạm giam ngày 09/4/2019; có mặt.

5. Võ Văn T1 (tên gọi khác: V), sinh năm 1998; tại tỉnh Phú Yên. Nơi cư trú: Khu phố N 6, phường 9, thành phố T, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Đức Đ, sinh năm 1972 và à Đặng Th Hồng T, sinh năm 1973; tiền án, tiền sự: Không; tạm giam ngày 09/4/2019; có mặt.

6. Phạm Trường D (tên gọi khác: D Què), sinh năm 1991; tại tỉnh Phú Yên. Nơi cư trú: Khu phố N 6, phường 9, thành phố T, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn H, sinh năm 1969 và à Trần Th Kim O, sinh năm 1971; có vợ Công Th H, sinh năm 1995 và 01 con sinh năm 2018; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 10/9/2018, Công an Thành phố T xử phạt vi phạm hành chính 2.500.000 đồng về hành vi “Cố ý gây thương tích”; tạm giam ngày 26/4/2019; có mặt.

7. Phùng Quốc N (tên gọi khác: TB), sinh năm 1997; tại tỉnh Phú Yên. Nơi cư trú: Khu phố L 1, phường 9, thành phố T, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phùng Quốc T, sinh năm 1976 và à Võ Th Đ, sinh năm 1976; tiền án, tiền sự: Không; tạm giam ngày 26/4/2019; có mặt.

8. Huỳnh Tấn C1, sinh năm 1989; tại tỉnh Phú Yên. Nơi cư trú: Khu phố L 1, phường 9, thành phố T, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Tấn L, sinh năm 1950 và à Lương Th T, sinh năm 1949; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 28/9/2010 Ủy an nhân dân phường 9, thành phố T áp dụng iện pháp giáo dục tại phường, thời hạn 06 tháng về hành vi nhiều lần đánh nhau gây mất trật tự công cộng; cáo ắt tạm giam ngày 25 tháng 5 năm 2020; có mặt.

9. Phạm Chí P (tên gọi khác: P Em), sinh năm 1998; tại tỉnh Phú Yên. Nơi cư trú: Khu phố N 6, phường 9, thành phố T, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: Thợ hồ; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Hữu P, sinh năm 1974 và à Nguyễn Th R, sinh năm 1974; tiền án, tiền sự: Không; cáo ắt tạm giam ngày 25 tháng 5 năm 2020; có mặt.

10. Phạm Chí P2 (tên gọi khác: B), sinh năm 1997; tại tỉnh Phú Yên. Nơi cư trú: Khu phố N 6, phường 9, thành phố T, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Hữu P, sinh năm 1974 và à Nguyễn Th R, sinh năm 1974; tiền án, tiền sự: Không; cáo ắt tạm giam ngày 25 tháng 5 năm 2020; có mặt.

11. Lê Quốc C2 (tên gọi khác: Tý C2), sinh năm 1997; tại tỉnh Phú Yên. Nơi cư trú: Khu phố N 1, phường 9, thành phố T, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: Bốc vác; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn K, sinh năm 1966 và à Lê Th S, sinh năm 1969; tiền án, tiền sự: Không; cáo ắt tạm giam ngày 25 tháng 5 năm 2020; có mặt.

- Người bbào chữa của các bị cáo:

1. Bà Nguyễn Th N – Luật sư, Văn phòng Luật sư D, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Phú Yên, bào chữa cho cáo Phạm Văn C; có mặt.

2. Ông Nguyễn Tâm H – Luật sư, Văn phòng Luật sư H, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Phú Yên, bào chữa cho cáo Phạm Tiến Đ; có mặt.

3. Ông Ngô Minh T – Luật sư, Văn phòng Luật sư Số 1, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Phú Yên, bào chữa cho cáo Nguyễn Xuân L; có mặt.

4. Ông Trần Văn X – Luật sư, Văn phòng Luật sư P, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Phú Yên, bào chữa cho cáo Phạm Tấn T; có mặt.

5. Ông Trần Danh T – Luật sư, Văn phòng Luật sư T, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Phú Yên, bào chữa cho cáo Phùng Quốc N;có mặt.

6. Ông Ngô Thiên P – Luật sư, Văn phòng Luật sư Nhật P, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Phú Yên, bào chữa cho cáo Phạm Trường D; có mặt.

7. Ông Nguyễn N – Trợ giúp viên pháp lý thuộc T3 tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Phú Yên bào chữa cho cáo Võ Văn T1; có mặt.

8. Bà Trần Th N T – Luật sư Văn phòng Luật sư D, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Phú Yên, bào chữa cho cáo: Lê Quốc C2, Huỳnh Tấn P, Huỳnh Tấn C1, Phạm Chí P, Phạm Chí P2; có mặt.

- Đại diện hợp pháp của người bị hại kháng cáo: Ông Lê Văn Đ, sinh năm 1966. Nơi cư trú: tỉnh Khánh Hòa; (là cha của hại Lê Thành T3 đã chết) vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 08/4/2019, Huỳnh Tấn P cùng Phùng Quốc N, Huỳnh Tấn C1, Nguyễn Xuân L, Võ Văn T1, Phan Tấn T, Phạm Văn C, Phạm Trường D, Lê Quốc C2, Phan Thành L1, Công Th H (vợ D), Lê Th Kim M (bạn gái L1), Phan Th Ngọc L (bạn gái C2), Nguyễn Th Thùy D (bạn gái L) ăn nhậu tại nhà của P. Khoảng 17 giờ cùng ngày, L1, L, C2 chở bạn gái về; D chở vợ về rồi quay lại nhà P tiếp tục ăn nhậu. C nói với P, C1, T1, T, N, D nghe; C và mẹ C là à Phan Th L xảy ra mâu thuẫn với à Lê Th T (do nhóm của Nguyễn Văn B bảo kê) trong việc tranh chấp v trí uôn án trên đường N, khu vực Bệnh viện đa khoa tỉnh Phú Yên. Nghe vậy, D xin ý kiến P rồi điều khiển xe mô tô chở C1 đến quán của B trên đường N gặp B để nói chuyện, giải quyết mâu thuẫn cho C nhưng không gặp nên quay lại nhà P.

Lúc này, tại nhà P có C1, T1, T, N, D, C và Phạm Chí P2, Phạm Chí P. D nói: “Nhóm của B đông lắm” thì P nói: “Nhóm thằng B nó thích chơi thì chơi”. Cả nhóm đi đến khu vực giao nhau giữa đường S và A thuộc phường 9, thành phố T để nhậu tiếp và àn ạc đánh nhóm B. P đem theo 01 cây đao và 01 cây gậy ba khúc; C1 đem theo 01 tuýt sắt; T về nhà lấy 01 con dao, T1 đến phòng trọ của L chở L mang theo 03 cây đao đến khu vực đã hẹn. Tại đây, L xin ý kiến P rồi gọi điện cho Phan Tiến Đ nói: “Bạn đến khu vực giao nhau giữa đường S và A, anh em đang tập trung giúp anh Sáu P có chuyện”, sau đó khoảng 10 phút, Đ điều khiển xe mô tô đến.

Khoảng 19 giờ 45 phút cùng ngày, P nói với cả nhóm: “Chuẩn b hung khí xong chưa, nghe anh phổ biến, phân công nhiệm vụ”. Sau đó, P chia thành 03 nhóm đi theo đường M, S và H đến đánh nhóm của B. P nói: “Để anh đi trước tìm nhóm của B, khi nào anh la lên thì bọn em xông vào đánh”. Nghe vậy, tất cả đem theo hung khí đã chuẩn b trước đi đến quán của B.

P điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Exciter biển kiểm soát 78C1- 204.83 đem 01 cây đao và 01 cây a khúc đi trước theo đường S; P2 điều khiển xe mô tô hiệu Suzuki Raider biển kiểm soát 78C1-530.98 theo sau. Lúc này, C2 vừa điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 78C1-464.37 đến thì N ngồi lên xe C2, nói: “Chạy theo anh Sáu P đi đánh nhóm thằng B bảo kê án cá”. Chí P điều khiển xe mô tô hiệu Honda Winner biển kiểm soát 78C1-530.78 chở C1 đem 01 cây tuýt sắt.Phan Thành L1 được N gọi đến nhậu, đang điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 78C1-213.25 trên đường S nhìn thấy nhóm P chạy ngược chiều nên quay xe lại chạy theo. 06 người còn lại theo đường H đến quán của B (không có ai đi theo đường M) gồm: C điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 78C1-402.41 chở T1 đem theo 01 cây kiếm và 01 cây tuýt sắt; L điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 78C1-406.84 chở Đ đem theo 02 cây đao; T điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 78C1-132.14 chở D đem theo 01 cây đao và 01 con dao. Lúc này, tại quán của B; có B, Nguyễn Th N, Nguyễn Văn T4, Nguyễn N T, Huỳnh Tấn T và Lê Thành T3. Thấy P, C, T1, Đ và L đi đến, nhiều người trong nhóm của B bỏ chạy. T3 và C đánh nhau qua lại, địnhảy xuống xe cầm 01 cây đao bằng hai tay chém T3 02 nhát, một nhát trúng vùng lưng và một nhát trúng chân phải làm rơi đao xuống đường. T3 xoay người bỏ chạy thì vấp hàng rào dây thép gai ở bồn hoa, đang trong tư thế khom người sắp té thì C nhặt cây đao Đ vừa làm rơi, cầm đao ằng hai tay chém một nhát trúng vào vùng đầu của T3; L cũng cầm 01 cây đao ằng hai tay chém hai nhát trúng vào chân trái của T3.

Trong lúc C, Đ, L chém T3 thì T điều khiển xe mô tô chở D đến. Thấy một thanh niên mặc áo đen trong nhóm của B bỏ chạy, T cầm dao rượt theo để chém nhưng không k p, khi quay lại thấy T3 nằm gục trên vỉa hè, Chí P chở C1 đến. T nói với Chí P và C1 “Chạy đi” rồi cả 03 điều khiển xe mô tô ỏ đi. C2 chở N đến đoạn giao nhau giữa đường N và S nhìn qua quán của B thấy C, L, Đ chém T3 gục tại chỗ, những người trong nhóm của B bỏ chạy nên quay xe lại.

Sau khi chém T3. Đ điều khiển xe mô tô chở L đến khu vực gần nhà P vứt hai cây đao vào góc vườn rồi đi về nhà. P b Công an phường 9, thành phố T mời làm việc. T, C1, N, C, P2, Chí P, C2, L1, D, N tập trung tại khu vực cuối đường A. C nói: “Tao chém trúng đầu phun máu”, rồi cả nhóm giải tán. C, N, L, L1 đến nhà nghỉ Hải Anh ở phường Phú Đông, thành phố T thuê phòng ngủ; C nói với 03 người đi cùng là “Tao với thằng Đ chém”.

Lê Thành T3 được đưa đến Bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú Yên cấp cứu, đến khoảng 21 giờ cùng ngày thì chết.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 70/TT ngày 03/5/2019 của T3 tâm pháp y tỉnh Phú Yên kết luận: Lê Thành T3 chết do chấn thương sợ não.

Với nội dung nêu trên tại bản án hình sự sơ thẩm số: 04/2020/HS-ST ngày 14-01 -2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên đã quyết định:

Tuyên ố: Các cáo Phạm Văn C, Huỳnh Tấn P, Nguyễn Xuân L, Phan Tiến Đ, Võ Văn T1, Phan Tấn T, Phạm Trường D, Phùng Quốc N, Huỳnh Tấn C1, Phạm Chí P, Phạm Chí P2, Lê Quốc C2 phạm tội “Giết người”.

- Áp dụng Điểm n, p, Khoản 1 Điều 123; Điểm b, s, Khoản 1 Điều 51; Khoản 2 Điều 56; Khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự; xử phạt: bị cáo Phạm Văn C tù Chung thân; buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt 02 (Hai) năm tù cho hưởng án treo thời gian thử thách 04 năm về tội “Cố ý gây thương tích” theo Khoản 3 Điều 104 Bộ luật Hình sự năm 1999, tại Bản án hình sự phúc thẩm số: 21/2016/HSPT ngày 26/02/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên. Tổng hợp thành hình phạt chung, buộc bị cáo Phạm Văn C phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là tù Chung thân. Thời hạn tù tính từ ngày 09/4/2019.

- Áp dụng Điểm n, Khoản 1 Điều 123; Điểm b, Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt: bị cáo Huỳnh Tấn P tù Chung thân. Thời hạn tù tính từ ngày 09/4/2019.

- Áp dụng Điểm n, p, Khoản 1 Điều 123; Điểm s, Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt: bị cáo Nguyễn Xuân L– 20 (Hai mươi) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09/4/2019.

- Áp dụng Điểm n, Khoản 1 Điều 123; Điểm b, s, Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt: bị cáo Phan Tiến Đ– 19 (Mười chín) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 10/4/2019; bị cáo Võ Văn T1– 16 (Mười sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09/4/2019.

- Áp dụng Điểm n, Khoản 1 Điều 123; Điểm s, Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với các cáo; thêm Điểm b, Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo T; xử phạt: bị cáo Phan Tấn T – 15 (Mười lăm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09/4/2019; bị cáo Phạm Trường D– 14 (Mười bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 26/4/2019.

- Áp dụng Điểm n, Khoản 1 Điều 123; Điểm b, s, Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với các cáo; Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với C1, P2, P, Đ, C2; thêm Điều 54 Bộ luật Hình sự đối với C2; xử phạt: bị cáo Phùng Quốc N – 13 (Mười ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 26/4/2019; cáo Huỳnh Tấn C1 – 13 (Mười ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày ắt cáo thi hành án; cáo Phạm Chí P – 12 (Mười hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày ắt cáo thi hành án;

Bị cáo Phạm Chí P2 – 12 (Mười hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày ắt cáo thi hành án; cáo Lê Quốc C2– 11 (Mười một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày ắt cáo thi hành án.

Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự và các Điều 288, 585, 587, 591 Bộ luật Dân sự;

Buộc các cáo Phạm Văn C, Huỳnh Tấn P, Nguyễn Xuân L, Phan Tiến Đ, Võ Văn T1, Phan Tấn T, Phạm Trường D, Phùng Quốc N, Huỳnh Tấn C1, Phạm Chí P, Phạm Chí P2, Lê Quốc C2 phải liên đới bồi thường thiệt hại về tính mạng của bị hại Lê Thành T3 b xâm phạm, cho đại diện hợp pháp của người bị hại ông Lê Văn Đ đại diện nhận số tiền: 211.710.000 đồng (Hai trăm mười một triệu, bảy trăm mười nghìn đồng), cụ thể:Các cáo Phạm Văn C, Huỳnh Tấn P, Nguyễn Xuân L, Phan Tiến Đ mỗi bị cáo phải bồi thường 30.000.000đồng (Ba mươi triệu đồng). Các cáo Võ Văn T1, Phan Tấn T, Phạm Trường D, Phùng Quốc N, Huỳnh Tấn C1, Phạm Chí P, Phạm Chí P2, Lê Quốc C2 mỗi bị cáo phải bồi thường 11.463.750 đồng (Mười một triệu, bốn trăm sáu mươi ba nghìn bảy trăm năm mươi đồng).

B cáo Huỳnh Tấn P đã bồi thường đủ 30.000.000đồng (Ba mươi triệu đồng); bị cáo Phạm Văn C đã bồi thường 15.000.000đồng (Mười lăm triệu đồng), còn phải tiếp tục bồi thường 15.000.000đồng (Mười lăm triệu đồng); Lê Quốc C2 đã bồi thường 12.000.000đồng (Mười hai triệu đồng), dư 536.250 đồng (Năm trăm ba mươi sáu nghìn hai trăm năm mươi đồng) nhưng cáo không nhận lại, mà tự nguyện bồi thường luôn cho đại diện hợp pháp của người bị hại, nên ghi nhận; Huỳnh Tấn C1 đã bồi thường 10.000.000đồng (Mười triệu đồng), còn phải tiếp tục bồi thường 1.463.750đồng (Một triệu bốn trăm sáu mươi ba nghìn bảy trăm năm mươi đồng); Phan Tiến Đ đã bồi thường 7.000.000đồng (Bảy triệu đồng),còn phải tiếp tục bồi thường 4.463.750đồng (Bốn triệu bốn trăm sáu mươi ba nghìn bảy trăm năm mươi đồng); Võ Văn T1 đã bồi thường 8.000.000đồng (Tám triệu đồng),còn phải tiếp tục bồi thường 3.463.750đồng Ba triệu bốn trăm sáu mươi ba nghìn bảy trăm năm mươi đồng);Phan Tấn T đã bồi thường 6.000.000đồng (Sáu triệu đồng),còn phải tiếp tục bồi thường 5.463.750đồng (Năm triệu bốn trăm sáu mươi ba nghìn bảy trăm năm mươi đồng);Phùng Quốc N đã bồi thường 5.000.000đồng (Năm triệu đồng),còn phải tiếp tục bồi thường 6.463.750đồng(Sáu triệu bốn trăm sáu mươi ba nghìn bảy trăm năm mươi đồng); Phạm Chí P đã bồi thường 8.250.000đồng (Tám triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng), Phạm Chí P2 đã bồi thường 8.250.000đồng (Tám triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng), mỗi bị cáo còn phải tiếp tục bồi thường 3.213.750đồng (Ba triệu hai trăm mười ba nghìn bảy trăm năm mươi đồng).

Bản án còn quyết định về án phí, xử lý vậtịchứng và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

* Sau khi xét xử sơ thẩm trong hạn luật định, các cáo Phạm Văn C, Huỳnh Tấn P, Nguyễn Xuân L, Phan Tiến Đ, Võ Văn T1, Phan Tấn T, Phạm Trường D, Phùng Quốc N, Huỳnh Tấn C1, Phạm Chí P, Phạm Chí P2, Lê Quốc C2 có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

* Ông Lê Văn Đ là Đại diện hợp pháp của bị hại có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Phan Tấn T.

* Ngày 21 tháng 01 năm 2020 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên có Quyết định kháng nghị số 02/QĐ-VKS-P1 kháng nghị phần hình phạt đối với bị cáo Huỳnh Tấn P với nội dung: Đề ngh giảm hình phạt tù cho cáo từ mức án chung thân xuống mức án tù có thời hạn và thấp hơn mức án tù của bị cáo L.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, các cáo vẫn giữ nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên kháng nghị .

Người bào chữa cho các cáo đề ngh Hội đồng xét xử chấp nhận đơn kháng cáo của các cáo, sửa án sơ thẩm theo hướng giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề ngh hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị, chấp nhận đơn kháng cáo của đại diện hợp pháp của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo T, và chấp nhận đơn kháng cáo, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo; Huỳnh Tấn P, Võ Văn T1, Phan Tấn T, Phạm Trường D, Phùng Quốc N, Huỳnh Tấn C1, Phạm Chí P, Phạm Chí P2, Lê Quốc C2. Không chấp nhận đơn kháng cáo của các cáo Phạm Văn C, Phan Tiến Đ, Nguyễn Xuân L.

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, lời khai nhận của bị cáo, ý kiến người bào chữa và kết quả tranh luận tại phiên tòa. Trên cơ sở xem xét đánh giá khách quan toàn diện và đầy đủ chứng cứ. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Khoảng 19 giờ 45 phút ngày 08/4/2019, tại quán nước của Nguyễn Văn B trên đường N (khu vực Bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú Yên) phường 9, thành phố T, tỉnh Phú Yên. Huỳnh Tấn P cùng Phạm Văn C, Phan Tiến Đ, Nguyễn Xuân L, Võ Văn T1, Phan Tấn T, Phạm Trường D, Phùng Quốc N, Huỳnh Tấn C1, Phạm Chí P, Phạm Chí P2, Lê Quốc C2 àn ạc, thống nhất chuẩn bị hung khí gồm đao, kiếm, dao, tuýt sắt, gậy a khúc đến đánh nhóm của Nguyễn Văn B. Trong lúc đánh nhau C, Đ, L đã dùng đao chém Lê Thành T3 là người trong nhóm của Nguyễn Văn B, hậu quả là Lê Thành T3 b chết do chấn thương sọ não.

Với hành vi và hậu quả nêu trên, các cáo Phạm Văn C, Huỳnh Tấn P,Nguyễn Xuân L, Phan Tiến Đ, Võ Văn T1, Phan Tấn T, Phạm Trường D, Phùng Quốc N, Huỳnh Tấn C1, Phạm Chí P, Phạm Chí P2, Lê Quốc C2 b Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Phạm Văn C, Nguyễn Xuân L về tội “Giết người” theo Điểm n, p, Khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự; các cáo Huỳnh Tấn P, Phan Tiến Đ, Võ Văn T1, Phan Tấn T, Phạm Trường D, Phùng Quốc N, Huỳnh Tấn C1, Phạm Chí P, Phạm Chí P2, Lê Quốc C2 về tội “Giết người” theo Điểm n, Khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự là có căn cứ đúng pháp luật.

[2] Xét kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên và kháng cáo của cáo Huỳnh Tấn P; Hội đồng xét xử xét thấy:

Sau khi được C nhờ thì cáo P là người rủ các cáo đi đánh nhóm của Nguyễn Văn B; khi đi cáo mang theo 01 cây a khúc và đao; dẫn đến các cáo C, L, Đ thực hiện hành vi chém chết Lê Thành T3 trong đó C là người trực tiếp gây nên cái chết cho hại. Nên cáo P phải cùng chịu trách nhiệm về cái chết của T3.

Trong vụ án có cáo Phạm Văn C là người có hành vi trực tiếp cầm đao chém vào đầu Lê Thành T3, là nguyên nhân chính dẫn đến T3 chết do chấn thương sọ não; cáo Nguyễn Xuân L cũng cầm đao chém hai nhát trúng vào chân của T3, cả hai cáo truy tố và đưa ra xét xử về tội giết người với 02 tình tiết định khung là có tính chất côn đồ và tái phạm nguy hiểm theo điểm n, p khoản 1 Điều 123 BLHS. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt cáo C tù chung thân; cáo L 20 năm tù là phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội và nhân thân của các cáo.

B cáo P phạm tội giết người với tình tiết định khung có tính chất côn đồ theo điểm n, khoản 1 Điều 123 BLHS nhưng cáo không trực tiếp chém hại T3. Trước khi đi đánh nhóm của B, cáo nói với cả nhóm “Để anh đi trước tìm nhóm của B, khi nào anh la lên thì bọn em xông vào đánh” nhưng vừa đến nơi thì các cáo C, L, Đ đã xông vào chém hại. Sau đó, cáo P cùng mọi người đưa hại đi cấp cứu, quá trình điều tra, truy tố cáo khai báo quanh co nhận trách nhiệm là người trực tiếp chém T3 (Nhận tội thay cho các bị cáo khác) nhưng tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm hôm nay, cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, gia đình cáo đã tự nguyện khắc phục hậu quả cho gia đình hại 30.000.000đ; cáo có ông bà nội là người có công trong cuộc kháng chiến chống M, cứu nước. Do đó, cần xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho cáo. Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của cáo P cần xử mức án nhẹ hơn so với cáo C, tuy nhiên kháng nghị của Viện kiểm sátịcho rằng mức án của cáo P cần phải nhẹ hơn cáo L là chưa phù hợp, bởi lẽ xem xét vai trò của cáo P cùng với tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như hành vi của cáo L cùng với tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của cáo thì thấy cần xử phạt 02 cáo mức án bằng nhau là phù hợp. Do vậy kháng cáo của cáo và kháng nghị của Viện kiểm sát được chấp nhận.

[3] Xét đơn kháng cáo của các cáo Phạm Văn C, Nguyễn Xuân L; Hội đồng xét xử xét thấy;

Trong vụ án này bị cáo C và cáo L phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, bị cáo C là người trực tiếp gây ra cái chết cho bị hại, bị cáo L tham gia với vai trò đồng phạm tích cực; Bản án sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân 02 cáo C và L để xử phạt bị cáo C tù “chung thân” cáo L 20 năm tù là thỏa đáng và không nặng, do vậy đơn kháng cáo của 02 bị cáo là không có căn cứ chấp nhận.

[4] Xét kháng cáo của ông Lê Văn Đ là Đại diện hợp pháp của bị hại có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Phan Tấn T và kháng cáo của bị cáo T xét thấy:

Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo đã tác động gia đình ồi thường hết số tiền theo án sơ thẩm tuyên buộc bị cáo phải có nghĩa vụ bồi thường. Mặt khác trong vụ án này cáo T tham gia vai trò thứ yếu không trực tiếp gây ra cái chết cho bị hại, bản án sơ thẩm xét xử bị cáo mức án tù 15 năm là nghiêm khắc; Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy cần chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo, và của đại diện bị hại, giảm một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các cáo: Phan Tiến Đ, Võ Văn T1, Phạm Trường D, Phùng Quốc N, Huỳnh Tấn C1, Phạm Chí P, Phạm Chí P2, Lê Quốc C2, xét thấy:

B cáo Phan Tiến Đ là người có tham gia chém hại, bị cáo chém hại trước bị cáo C và cáo L, Bản án sơ thẩm đã xử phạt bị cáo mức án 19 năm tù là thỏa đáng, do vậy đơn kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận.

Xét kháng cáo của các cáo, Võ Văn T1, Phạm Trường D, Phùng Quốc N. Xét thấy, các cáo không trực tiếp chém hại nhưng là những người đi cùng trong nhóm của bị cáo L, C, trong đó cáo T1 cùng với L đi chung một xe, Bản án sơ thẩm xem xét vai trò của từng bị cáo để xử phạt các cáo mức án từ 13 đến 16 năm tù là thỏa đáng, do vậy đơn kháng cáo của các cáo không được chấp nhận.

Xét kháng cáo của các cáo Huỳnh Tấn C1, Phạm Chí P, Phạm Chí P2, Lê Quốc C2; Xét thấy, trong vụ án này các cáo chỉ nghe theo các cáo khác để đi theo đồng bọn đánh anh T3, các cáo là những người không trực tiếp đánh đuổi bị hại, sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo đã nộp đủ số tiền còn phải bồi thường cho bị hại. Xét vai trò của các cáo là thứ yếu, Bản án sơ thẩm xử phạt bị cáo Huỳnh Tấn C1 13 năm tù, Phạm Chí P 12 năm tù, Phạm Chí P2 12 năm tù, Lê Quốc C2 11 năm tù là có phần nghiêm khắc do vậy hội đồng xét xử xét thấy cần thiết giảm một phần hình phạt cho các bị cáo, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

Án phí: Các cáo Phạm Văn C, Nguyễn Xuân L; Phan Tiến Đ, Võ Văn T1, Phạm Trường D, Phùng Quốc N, phải chịu án phí hình sự phúc thẩm vì kháng cáo không được chấp nhận theo quy định của pháp luật:

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Chấp nhận kháng nghị số 02/QĐ-VKS-P1 ngày 21 tháng 01 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên. Chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo Huỳnh Tấn P.

Không chấp nhận đơn kháng cáo của các cáo Phạm Văn C, Nguyễn Xuân L, Phan Tiến Đ, Võ Văn T1, Phạm Trường D, Phùng Quốc N.

Chấp nhận đơn kháng cáo của các cáo: Phan Tấn T, Huỳnh Tấn C1, Phạm Chí P, Phạm Chí P2, Lê Quốc C2, và kháng cáo của ông Lê Văn Đ.

Sửa quyết định của bản án hình sự sơ thẩm số: 04/2020/HS-ST ngày 14-01- 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên về phần hình phạt đối với các bị cáo.

- Áp dụng Điểm n, p, Khoản 1 Điều 123; Điểm b, s, Khoản 1 Điều 51; Khoản 2 Điều 56; Khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự; xử phạt: bị cáo Phạm Văn C tù Chung thân; buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt 02 (Hai) năm tù cho hưởng án treo thời gian thử thách 04 năm về tội “Cố ý gây thương tích” theo Khoản 3 Điều 104 Bộ luật Hình sự năm 1999, tại Bản án hình sự phúc thẩm số: 21/2016/HSPT ngày 26/02/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên. Tổng hợp thành hình phạt chung, buộc bị cáo Phạm Văn C phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là tù “Chung thân”. Thời hạn tù tính từ ngày 09/4/2019.

- Áp dụng Điểm n, Khoản 1 Điều 123; Điểm b,s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt: bị cáo Huỳnh Tấn P - 20 (hai mươi) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09/4/2019.

- Áp dụng Điểm n, p, Khoản 1 Điều 123; Điểm s, Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt: bị cáo Nguyễn Xuân L - 20 (Hai mươi) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09/4/2019.

- Áp dụng Điểm n, Khoản 1 Điều 123;Điểm b, s, Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt: bị cáo Phan Tiến Đ - 19 (Mười chín) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 10/4/2019; bị cáo Võ Văn T1 - 16 (Mười sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09/4/2019.

- Áp dụng Điểm n, Khoản 1 Điều 123; Điểm s, Khoản 1Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với các cáo; thêm Điểm b, Khoản 1Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo T; xử phạt: bị cáo Phan Tấn T 13 (Mười ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09/4/2019; bị cáo Phạm Trường D 14 (Mười bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 26/4/2019.

- Áp dụng Điểm n, Khoản 1 Điều 123; Điểm b, s, Khoản 1Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với các cáo; Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với C1, P2, P, Đ, C2; thêm Điều 54 Bộ luật Hình sự đối với C2, P, P2, C1; xử phạt:

B cáo Phùng Quốc N - 13 (Mười ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 26/4/2019; cáo Huỳnh Tấn C1 - 11 (Mười một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25 tháng 5 năm 2020; cáo Phạm Chí P - 10 (Mười) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25 tháng 5 năm2020; cáo Phạm Chí P2 - 10 (Mười) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25 tháng 5 năm 2020; cáo Lê Quốc C2 - 09 (chín) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25 tháng 5 năm 2020.

Án phí: Các bị cáo, Phạm Văn C, Nguyễn Xuân L, Phan Tiến Đ, Võ Văn T1, Phạm Trường D, Phùng Quốc N, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, và không kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

266
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 240/2020/HSPT ngày 19/09/2020 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:240/2020/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về