Bản án 238/2019/DS-ST ngày 24/04/2019 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN PHÚ NHUẬN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 238/2019/DS-ST NGÀY 24/04/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 24 tháng 4 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 562/2018/TLST-DS ngày 02 tháng 7 năm 2018 về “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2019/QĐXXST-DS ngày 07 tháng 3 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 11/2019/QĐST-DS ngày 28 tháng 3 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng thương mại Cổ phần S.

Trụ sở: Lầu 8 266-268 đường N, Phường T, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Đức T, sinh năm 1984.

Cư trú tại: 68/26 đường B, phường B, quận M, Thành phố Hồ Chí Minh. (Giấy ủy quyển số: 910/2018/UQ-TTT ngày 11/6/2018).

- Bị đơn: Ông Đỗ Minh H, sinh năm 1961.

Cư trú tại: 423/11 đường N, Phường C, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 11/6/2018 của Ngân hàng thương mại Cổ phần S và quá trình giải quyết vụ án ông Trần Đức T là người đại diện của nguyên đơn trình bày:

Ngày 28/3/2013, ông Đỗ Minh H ký Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng bao gồm Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng thương mại Cổ phần S, hạn mức tín dụng: 200.000.000 đồng, lãi suất: 2.15%/tháng.

Sau khi được cấp Thẻ tín dụng, ông H đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền là 287.400.000 đồng. Trong quá trình sử dụng thẻ, từ ngày kích hoạt thẻ đến nay ông H đã thanh toán cho Ngân hàng thương mại Cổ phần S tổng số tiền 312.410.292 đồng.

Qua nhiều lần làm việc, nhắc nhở nhưng ông H vẫn không có thiện chí trả nợ, vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo Điều 2 của Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng thương mại Cổ phần S nên ngày 26/12/2015 Ngân hàng thương mại Cổ phần S đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ của ông H và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn theo Điều 23 của Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng thương mại Cổ phần S.

Do đó Ngân hàng thương mại Cổ phần S khởi kiện yêu cầu ông Đỗ Minh H thanh toán số tiền tạm tính đến ngày 24/4/2019 là 431.962.952 đồng (Trong đó nợ gốc là 180.533.184 đồng, lãi quá hạn là 251.429.768 đồng) và tiền lãi phát sinh từ ngày 25/4/2019 cho đến khi trả hết nợ theo mức lãi suất thỏa thuận trong Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 28/3/2013.

Thi hành một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Đại diện Ngân hàng thương mại Cổ phần S có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn ông Đỗ Minh H vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm:

+ Về việc tuân theo pháp luật của theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã được thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

+ Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp, thẩm quyền giải quyết vụ án:

Ngân hàng thương mại Cổ phần S khởi kiện yêu cầu giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng đối với bị đơn ông Đỗ Minh H cư trú tại quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh. Căn cứ quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh.

Tòa án tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý; giấy triệu tập; thông báo tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải; quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định hoãn phiên tòa, giấy triệu tập tham gia phiên tòa nhưng ông Đỗ Minh H vắng mặt.

Đại diện Ngân hàng thương mại Cổ phần S có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Căn cứ quy định tại các Điều 196, 207, 208, 227 Bộ luật tố tụng dân sự nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Về nội dung tranh chấp:

Xét yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn thanh toán nợ gốc là 180.533.184 đồng.

Căn cứ vào ký Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 28/3/2013 bao gồm bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng thương mại Cổ phần S, được lập và có chữ ký giữa Ngân hàng thương mại Cổ phần S và ông Đỗ Minh H đủ cơ sở để xác định Ngân hàng thương mại Cổ phần S phát hành thẻ quốc tế Visa Platium, số thẻ: 436438-5555, hình thức đảm bảo: tín chấp, hạn mức tín dụng: 200.000.000 đồng, lãi suất: 2.15%/năm cho ông Đỗ Minh H.

Nội dung Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng phù hợp với quy định tại điểm d Khoản 3 Điều 98 Luật các Tổ chức tín dụng nên có hiệu lực pháp luật. Bị đơn vi phạm các quy định trong hợp đồng cấp tín dụng và đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng, triệu tập hợp lệ, nhưng không đến Tòa giải quyết cũng không có văn bản phản đối yêu cầu của nguyên đơn do đó có cơ sở chấp nhận theo quy định tại khoản 1 Điều 95 Luật các Tổ chức tín dụng.

Xét yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn thanh toán tiền lãi tạm tính đến ngày 24/4/2019 là 251.429.768 đồng và tiền lãi phát sinh từ ngày 25/4/2019 cho đến khi trả hết nợ theo mức lãi suất thỏa thuận trong Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 28/3/2013.

Do bị đơn vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên ngày 26/12/2015 nguyên đơn đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang lãi quá hạn, căn cứ Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng do nguyên đơn công bố được áp dụng cho thẻ tín dụng cấp cho bị đơn được xác định lãi suất 2.15%/tháng. Việc tính lãi của nguyên đơn phù hợp với quy định khoản 2 Điều 91 Luật các Tổ chức tín dụng do đó có cơ sở chấp nhận yêu cầu tiền lãi của nguyên đơn.

[3] Về án phí dân sự sơ thẩm:

- Ông Đỗ Minh H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với nghĩa vụ phải thanh toán.

- Ngân hàng thương mại Cổ phần S không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, của Điều 147, khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 91, Điều 95 và Điều 98 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010;

Căn cứ Luật phí và lệ phí năm 2015 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30 tháng 12 năm 2016;

Căn cứ Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014).

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn - Ngân hàng thương mại Cổ phần S.

Buộc ông Đỗ Minh H phải thanh toán cho Ngân hàng thương mại Cổ phần S tổng số tiền tạm tính đến ngày 24/4/2019 là 431.962.952 (Bốn trăm ba mươi mốt triệu chín trăm sáu mươi hai nghìn chín trăm năm mươi hai đồng). Trong đó nợ gốc là 180.533.184 (Một trăm tám mươi triệu năm trăm ba mươi ba nghìn một trăm tám mươi bốn đồng) và lãi quá hạn là 251.429.768 (Hai trăm năm mươi mốt triệu bốn trăm hai mươi chín nghìn bảy trăm sáu mươi tám đồng) theo Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 28/3/2013 bao gồm bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng giữa Ngân hàng thương mại Cổ phần S và ông Đỗ Minh H.

Thi hành một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật.

2. Về án phí:

- Ông Đỗ Minh H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 21.278.518 (Hai mươi mốt triệu hai trăm bảy mươi tám nghìn năm trăm mười tám đồng).

- Ngân hàng thương mại Cổ phần S không phải chịu án phí hoàn lại cho Ngân hàng thương mại Cổ phần S 9.178.000 (Chín triệu một trăm bảy mươi tám nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 09933 ngày 27/6/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Về nghĩa vụ thi hành án Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm ông Đỗ Minh H còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 28/3/2013 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 28/3/2013, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng thương mại Cổ phần S thì lãi suất mà ông Đỗ Minh H phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng thương mại Cổ phần S theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng thương mại Cổ phần S.

Trường hợp bản án quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luậ t Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

4. Về quyền kháng cáo:

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 238/2019/DS-ST ngày 24/04/2019 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:238/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Phú Nhuận - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 24/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về