Bản án 237/2017/HS-ST ngày 25/10/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 237/2017/HS-ST NGÀY 25/10/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 10 năm 2017 tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 210/2017/TLST-HS ngày 03 tháng 10 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 288/2017/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 10 năm 2017 đối với bị cáo:

Lê Văn T (Bé X), sinh năm: 1981, tại: Thành phố Hồ Chí Minh; hộ khẩu thường trú: số 8/15/38 đường K, Phường B, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Thợ hồ; trình độ văn hóa: không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn A và bà Sử Thị H; có vợ Lương Thị Đ, sinh năm 1995 và 02 con; tiền sự: không; tiền án: Ngày 21/12/1999, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 3360/HSST/1999); Ngày 26/4/2001, Tòa án nhân dân quận Gò Vấp xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 88/HSST/2001); Ngày 08/3/2004, Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xử phạt 05 năm tù về tội “Mua bán trái phép vũ khí quân dụng” và 03 năm tù về tội “Cướp tài sản” tổng hợp hình phạt 02 tội danh là 08 năm tù (Bản án số 47/HSST/2004); Ngày 12/8/2016, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm 14 ngày tù về tội “Gây rối trật tự công cộng” (Bản án số 285/HSST/22016); tiền sự: không; bị bắt tạm giam ngày: 18/6/2017; (Có mặt).

Bị hại: Anh Tăng Phước T, sinh năm; 1993; HKTT: số 58/2 đường D, Phường C, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh; (Vắng mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Trần Nghĩa T, sinh năm: 1994; HKTT: số 76/78 đường S, phường P, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh;(Vắng mặt).

2. Anh Võ Đình Thế M, sinh năm 1985; HKTT: thôn O, xã N, huyện L, tỉnh Quảng Nam; chỗ ở: xóm 2, thôn 2, xã H, huyện T, tỉnh Bình Thuận; (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 00 giờ ngày 17/6/2017 Lê Văn T điều khiển xe Wave đi về ngang nhà số 58/2 đường D, Phường C, quận G thì thấy cửa cổng mở bên trong có nhiều xe máy không người trông coi. Lê Văn T liền điện thoại cho một đối tượng tên P (không rõ lai lịch) rủ P đến lấy trộm tài sản, P đồng ý và chạy xe đến chung cư E chở P quay lại địa chỉ trên, cả hai lẻn vào lấy 01 chiếc xe Airbade P ngồi lên xe còn Lê Văn T đẩy xe về Chung cư E, quận U. Sau đó, Lê Văn T điện thoại cho một đối tượng tên T mượn xe Yamaha Exciter biển số 65K1 – 282.89 để cùng P đem xe vừa trộm cắp đi tiêu thụ, T đem xe đến đưa cho P mượn và lấy xe Wave của P đi, lúc đó Công an phường E tuần tra phát hiện bắt giữ được Lê Văn T còn P bỏ chạy thoát.

Tại Cơ quan điều tra Lê Văn T đã khai nhận hành vi cùng đồng bọn phạm tội như đã nêu trên.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 145/KL ngày 28/6/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng Ủy ban nhân dân quận Gò Vấp kết luận: xe máy hiệu Airbade biển số 59U1 – 979.83 đã qua sử dụng theo giá thị trường ngày17/6/2017 trị giá 33.500.000 đồng). 

Vật chứng thu giữ:

- Chiếc xe máy hiệu Yamaha Exciter biển số 65K1 – 282.89 qua xác minh biển số 65K1 – 282.89 là do Phan Thanh H đứng tên đăng ký có số khung và số máy khác với xe cơ quan điều tra đang tạm giữ. Tiến hành xác minh số khung và số máy xe đang tạm giữ thì xe có biển số 92E1 – 135.53 do anh Võ Đình Thế M đứng tên đăng ký, anh M khai xe bị mất tại Phường 7, quận Gò Vấp vào ngày 24/3/2017 nhưng anh không có trình báo Công an, Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh M chiếc xe nói trên.

- 01 dụng cụ dùng để bẻ khóa (đầu đoãn) bằng kim loại màu sáng dài 07 cm, một đầu lục giác, một đầu được mài dẹp và xẻ rãnh dọc theo đầu dẹp. 01 dụng cụ dùng để bẻ khóa (đầu đoãn) bằng kim loại màu sáng dài 05 cm, một đầu lục giác, một đầu được mài dẹp. 01 tua vít dài 04cm, 01 máy mài kim loại, 03 đoạn kim loại hình chữ L.

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu xanh, 01 điện thoại di động Nokia màu đen, 01 biển số 65K1 – 282.89, 01 biển số 59Y1 – 030.93. Qua xác minh chiếc xe máy Airbade biển số 59U1 – 979.83 do anh Trần Nghĩa T đứng tên, anh Trần Nghĩa T cho anh Tăng Phước T mượn sử dụng và bị lấy trộm. Cơ quan điều tra đã trả cho anh Trần Nghĩa T là chủ sỡ hữu.

Tại bản cáo trạng số 221/CTr-VKS, ngày 02/10/2017 của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp đã truy tố Lê Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c, khoản 2 Điều 138 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà hôm nay, Đại diện viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp sau khi luận tội và đưa ra quan điểm xét xử đối với vụ án đã đề nghị:

- Xử phạt bị cáo Lê Văn T từ 02 năm 6 tháng đến 03 năm tù.

- Miễn phạt bổ sung cho bị cáo.

- Tịch thu và tiêu hủy 01 dụng cụ dùng để bẻ khóa (đầu đoãn) bằng kim loại màu sáng dài 07 cm, một đầu lục giác, một đầu được mài dẹp và xẻ rãnh dọc theo đầu dẹp. 01 dụng cụ dùng để bẻ khóa (đầu đoãn) bằng kim loại màu sáng dài 05 cm, một đầu lục giác, một đầu được mài dẹp. 01 tua vít dài 04cm, 01 máy mài kim loại, 03 đoạn kim loại hình chữ L.

- Tịch thu sung quỹ nhà nước 02 điện thoại di động.

- Tịch thu và tiêu hủy 01 biển số 65K1 – 282.89, 01 biển số 59Y1 – 030.93.

Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Tại phiên toà hôm nay, sau khi Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp công bố bản cáo trạng thì Lê Văn T đã thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

Đối chiếu lời khai bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của người bị hại, cùng với tang vật đã thu giữ, phù hợp với kết luận điều tra của cơ quan Công an quận Gò Vấp, với bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp và với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng hành vi của Lê Văn T đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt trừng trị được quy định tại Điều 138 của Bộ luật Hình sự.

 [2] Lợi dụng sự sơ hở mất cảnh giác của người bị hại, bị cáo đã thực hiện hành vi lén lút lấy trộm tài sản rất táo bạo và liều lĩnh, hành vi của bị cáo đã xâm hại đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được Pháp luật và Nhà nước bảo hộ. Mặt khác, còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội và tác động xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Chỉ vì muốn tiêu xài phục vụ cho những nhu cầu cá nhân của mình mà không phải thông qua lao động chân chính bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, việc xử lý bị cáo bằng biện pháp hình sự là hết sức cần thiết và đúng quy định của pháp luật, xét nhân thân bị cáo xấu đã bị xử lý 04 tiền án về hành vi trộm cắp tài sản, cướp tài sản, mua bán trái phép vũ khí quân dụng và gây rối trật tự công cộng chưa được xóa án chứng tỏ thời gian cải tạo của các bản án trước chưa đủ tác dụng giáo dục, răn đe bị cáo và lần phạm tội này của bị cáo là tái phạm nguy hiểm, là tình tiết định khung được quy định tại điểm c khỏan 2 Điều 138 của Bộ luật hình sự. Do đó, cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian dài nhằm giúp cho bị cáo có điều kiện học tập cải tạo lại mình sau này biết tôn trọng pháp luật và tôn trọng tài sản của người khác.

 [3] Tuy nhiên, khi lượng hình cần xem xét cho bị cáo một số tình tiết: Tại Cơ quan điều tra và qua diễn biến phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thật thà khai báo thành khẩn nhận tội và tỏ ra ăn năn hối cải, gia đình bị cáo thuộc thành phần lao động nghèo, tài sản đã được thu hồi trả lại cho người bị hại để giảm nhẹ một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

 [4] Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 138 của Bộ luật Hình sự, xét tính chất vụ án và hoàn cảnh của bị cáo Hội đồng xét xử quyết định miễn áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo.

 [5] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa hôm nay người bị hại anh Tăng Phuớc T và anh Trần Nghĩa T vắng mặt, nhưng qua hồ sơ thể hiện anh Trần Nghĩa T đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt, anh Tăng Phuớc T và anh Trần Nghĩa T hiện không thắc mắc hay khiếu nại gì nên tại phiên tòa hôm nay Hội đồng xét xử không đưa ra xem xét lại.

 [6] Về xử lý vật chứng:

Đối với chiếc xe máy Airbade biển số 59U1 – 979.83 qua xác minh do anh Trần Nghĩa T đứng tên, anh Trần Nghĩa T cho anh Tăng Phước T mượn sử dụng và bị lấy trộm. Cơ quan điều tra đã trả cho anh Trần Nghĩa T là chủ sỡ hữu. Hội đồng xét xử nhận thấy xe có nguồn gốc rõ ràng và việc trả lại tài sản đó là đúng quy định của pháp luật và không ảnh hưởng đến nội dung vụ án nên tại phiên tòa hôm nay không đưa ra xem xét lại.

Đối với Chiếc xe máy hiệu Yamaha Exciter biển số 65K1 – 282.89 qua xác minh biển số 65K1 – 282.89 là do Phan Thanh H đứng tên đăng ký có số khung và số máy khác với xe cơ quan điều tra đang tạm giữ. Tiến hành xác minh số khung và số máy xe đang tạm giữ thì xe có biển số 92E1 – 135.53 do anh Võ Đình Thế M đứng tên đăng ký, anh M khai xe bị mất tại Phường 7, quận Gò Vấp vào ngày 24/3/2017 nhưng anh không có trình báo Công an, Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh M chiếc xe nói trên. Hội đồng xét xử nhận thấy xe có nguồn gốc rõ ràng và việc trả lại tài sản đó là đúng quy định của pháp luật và không ảnh hưởng đến nội dung vụ án nên tại phiên tòa hôm nay không đưa ra xem xét lại.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu xanh, 01 điện thoại di động Nokia màu đen là phương tiện các bị cáo dùng để liên lạc thực hiện hành vi phạm tội Hội đồng xét xử quyết định tịch thu sung quỹ nhà nước.

Đối với 01 dụng cụ dùng để bẻ khóa (đầu đoãn) bằng kim loại màu sáng dài 07 cm, một đầu lục giác, một đầu được mài dẹp và xẻ rãnh dọc theo đầu dẹp. 01 dụng cụ dùng để bẻ khóa (đầu đoãn) bằng kim loại màu sáng dài 05 cm, một đầu lục giác, một đầu được mài dẹp. 01 tua vít dài 04cm, 01 máy mài kim loại, 03 đoạn kim loại hình chữ L là dụng cụ các bị cáo dùng để thực hiện hành vi phạm tội Hội đồng xét xử quyết định tịch thu và tiêu hủy. Đối với 01 biển số 65K1 – 282.89, 01 biển số 59Y1 – 030.93 không còn giá trị sữ dụng Hội đồng xét xử quyết định tịch thu và tiêu hủy.

 [7] Đối với đối tượng tên P và T do không xác định được nhân thân lai lịch, khi nào xác định được sẽ xử lý sau.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Văn T (Bé X) phạm tội “Trộm cắp Tài sản”;

Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 138; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33 của Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Lê Văn T (Bé X) 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày tạm giữ, tạm giam 18/6/2017. Áp dụng Điều 41 của Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a,c,đ khoản 2 Điều 76 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh, 01 điện thoại di động Nokia màu đen.

Tịch thu và tiêu hủy 01 dụng cụ dùng để bẻ khóa (đầu đoãn) bằng kim loại màu sáng dài 07 cm, một đầu lục giác, một đầu được mài dẹp và xẻ rãnh dọc theo đầu dẹp. 01 dụng cụ dùng để bẻ khóa (đầu đoãn) bằng kim loại màu sáng dài 05 cm, một đầu lục giác, một đầu được mài dẹp. 01 tua vít dài 04cm, 01 máy mài kim loại, 03 đoạn kim loại hình chữ L, 01 biển số 65K1 – 282.89, 01 biển số 59Y1 – 030.93  (Theo phiếu nhập kho vật chứng số 593/PNK, ngày 11/9/2017 của Công an quận Gò Vấp) Áp dụng khỏan 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật Phí và Lệ phí, Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án;

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.

Bị cáo, có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án. Người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày được tính kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày niêm yết.Căn cứ Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008;

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 237/2017/HS-ST ngày 25/10/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:237/2017/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/10/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về