Bản án 232/2020/HS-ST ngày 24/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 232/2020/HS-ST NGÀY 24/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 8 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 227/2020/TLST-HS ngày 28 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 352/2020/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:

Lê Hồng B - Sinh năm 1970; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Số nhà A, đường T, phường Lam Sơn, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 7/10; Dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Giới tính: Nam; con ông Lê Hồng Ch (đã chết) và bà Lý Thị V (đã chết); Tiền sự: Không; Tiền án: Ngày 19/9/2007 Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa xử phạt 12 tháng tù về tội” Trộm cắp tài sản” (chấp hành xong án phí ngày 02/7/2014; Ngày 24/7/2012 Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa xử phạt 07 năm 06 tháng tù về tội “Tàng Trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt ngày 20/10/2018.

Nhân thân:

- Ngày 05/12/1991 Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa xử phạt 24 tháng tù về tội “ Cướp tài sản công dân” (xác minh không có hồ sơ thi hành án phần dân sự);

- Ngày 24/4/1995 Tòa án nhân dân tối cao xét xử phúc thẩm xử phạt 12 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Phạt quản chế tại địa phương 03 năm sau khi mãn hạn tù (xác minh không có hồ sơ thi hành án phần dân sự);

- Ngày 07/11/2008 bị cải tạo bắt buộc tại cơ sở giáo dục Hoàn Cát, tỉnh Quảng Trị thời hạn 24 tháng, về địa phương ngày 02/9/2010.

Bắt tạm giam từ ngày 27/5/2020 đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa - Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 10 giờ 45 phút ngày 29/04/2020, tại khu vực gầm cầu Cốc, phường Lam Sơn, thành phố Thanh Hóa, tổ công tác Công an phường Lam Sơn phát hiện, bắt quả tang Lê Hồng B đang tàng trữ trái phép chất ma túy. Qua kiểm tra, B tự giác giao nộp 01 gói giấy chứa chất bột màu trắng, B khai đây là heroin vừa mua được của một người đàn ông (không rõ tên, địa chỉ) ở khu vực cầu Lai Thành, phường Đông Sơn, TP. Thanh Hóa với giá 100.000đ, mục đích để sử dụng. Tổ công tác đã đưa Lê Hồng B về trụ sở Công an phường Lam Sơn để lập biên bản.

Tại bản kết luận giám định số 1263/PC09 ngày 04/5/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thanh Hóa giám định kết luận 01 gói giấy màu trắng thu giữ của B có khối lượng là 0,165g là ma túy, loại heroin (BL 28).

Quá trình điều tra, Lê Hồng B khai nhận: Do nghiện ma túy nên vào khoảng 10h20p ngày 29/4/2020, B một mình đi đến khu vực cầu Lai Thành, phường Đông Sơn, TP. Thanh Hóa tìm mua ma túy. Tại đây B gặp và mua 01 gói ma túy của một người đàn ông khoảng 30 tuổi (không rõ tên, địa chỉ) với giá 100.000đ, mua xong B cầm gói ma túy trên tay đi về phía khu vực gầm cầu Cốc, phường Lam Sơn, TP. Thanh Hóa tìm nơi sử dụng, nhưng chưa kịp sử dụng thì bị Tổ công tác Công an phường Lam Sơn kiểm tra, phát hiện và thu giữ tang vật.

Đi với người đàn ông B khai đã bán ma túy cho B, quá trình điều tra B khai không biết tên, địa chỉ của người này nên Cơ quan điều tra không đủ căn cứ để xác minh, xử lý.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa Lê Hồng B đã khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Về vật chứng: 01 phong bì ma túy niêm phong của phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thanh Hóa, có hình dấu của phòng kỹ thuật hình sự, kèm chữ ký, chữ viết của Nguyễn Trần Đăng, Nguyễn Mai Sơn; Nguyễn Đức Thuận và Lê Minh Tiến.

Toàn bộ vật chứng hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa, theo biên bản giao nhận vật chứng số 189/THA ngày 29/7/2020 giữa Công an thành phố Thanh Hóa với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa.

Ti bản cáo trạng số 212/ KLĐT- CSĐT ngày 03/7/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa, đã truy tố bị cáo Lê Hồng B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm o khoản 2 Điều 249 của BLHS .

Tại phiên tòa, đại diện VKSND thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị:

Áp dụng: Điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của BLHS. Điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố: Lê Hồng B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt bị cáo Lê Hồng B từ 06 năm đến 06 năm 06 tháng tù.

- Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy.

- Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Bị cáo không tranh luận với quan điểm luận tội của đại diện VKS. Lời nói sau cùng, bị cáo xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên:

Quá trình điều tra, truy tố Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi quyết định của người tiến hành tố tụng.

[2] Về hành vi phạm tội:

Khong 10 giờ 45 phút ngày 29/04/2020, tại khu vực gầm cầu Cốc, phường Lam Sơn, thành phố Thanh Hóa, tổ công tác Công an phường Lam Sơn phát hiện, bắt quả tang Lê Hồng B đang tàng trữ trái phép 01 gói ma túy trong người. Kết quả giám định gói ma túy có khối lượng 0,165g, loại Herôin.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa thống nhất với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, vật chứng thu được cùng các tài liệu khác phản ánh trong hồ sơ vụ án.

Hi đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi nêu trên của bị cáo có đủ dấu hiệu cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội danh và khung hình phạt được quy định tại Điểm o khoản 2 Điều 249 của BLHS (Với tình tiết định khung hình phạt “Tái phạm nguy hiểm”.

Vì vậy VKSND thành phố Thanh Hóa, truy tố bị cáo Lê Hồng B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 của BLHS là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:

Hiện nay tệ nạn ma túy đang là hiểm họa cho toàn xã hội, là nguyên nhân làm suy thoái kinh tế, là một trong những tác nhân làm lây lan căn bệnh HIV/AIDS và làm gia tăng các loại tội phạm khác. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Vì vậy tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, nên cần phải xử lý nghiêm.

[4] Đánh giá về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS của bị cáo:

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo. Do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS.

[5] Về vật chứng:

Đi với 01 phong bì ma túy là vật cấm tàng trữ, lưu hành. Do đó cần áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của BLHS; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 của BLTTHS để tịch thu tiêu hủy.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 BLTTHS và Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự;

Khon 1, điểm a khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 BLTTHS và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14.

Tuyên bố: Bị cáo Lê Hồng B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Lê Hồng B 06 (sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27/5/2020.

Về vật chứng: 01 phong bì ma túy niêm phong của phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thanh Hóa, có hình dấu của phòng kỹ thuật hình sự, kèm chữ ký, chữ viết của Nguyễn Trần Đăng, Nguyễn Mai Sơn; Nguyễn Đức Thuận và Lê Minh Tiến.

Toàn bộ vật chứng hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa, theo biên bản giao nhận vật chứng số 189/THA ngày 29/7/2020 giữa Công an thành phố Thanh Hóa với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa.

Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí HSST.

Bị cáo có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 232/2020/HS-ST ngày 24/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:232/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về