Bản án 23/2021/HS-ST ngày 26/01/2020 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 23/2021/HS-ST NGÀY 26/01/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 26 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân T phố Thuận An, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 19/2021/TLST- HS ngày 13 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2021/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo:

Phạm Văn T, sinh năm 1979 tại tỉnh Hải Dương; Nơi cư trú: Thôn C, xã N, huyện G, tỉnh Hải Dương; Tạm trú: khu phố A, phường A, thành phố T, tỉnh Bình Dương; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ văn hóa: 10/12; Con ông Phạm Quang T (đã chết) và bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm: 1950; Có vợ Đào Thị T, sinh năm: 1983 và có 02 người con; Tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/9/2020 đến ngày 25/9/2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn đặt tiền để bảo đảm cho đến nay; Có mặt.

- Bị hại: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm: 1989; Nơi đăng ký HKTT: Thôn Đ, xã A, huyện B, tỉnh Hà Nam; Chỗ ở: khu phố B, phường An Phú, T phố Thuận An, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

- Người làm chứng:

Bà Nguyễn Thị Y, bà Nguyễn Thị T. Vắng mặt. Bà Đào Thị T. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1 Khoảng 09 giờ 00 ngày 11/9/2020, bà Nguyễn Thị T (là mẹ của bị hại ông Nguyễn Văn T) xảy ra mâu thuẫn với bà Đào Thị T (là vợ của bị cáo Phạm Văn T) do trong quá trình buôn bán cá và sinh hoạt gần nhau trong chợ An Cơ thuộc khu phố B, phường A, thành phố phố Thuận An, tỉnh Bình Dương. Thấy vậy, bà Nguyễn Thị L (là mẹ của bà T) đi về nhà gặp bị cáo T, bị cáo T hỏi sao mẹ buồn thì bà L kể lại cho con rể là bị cáo T nghe sự việc mâu thuẩn nói trên.

Đến khoảng 09 giờ 30 phút cùng ngày, T đi đến chợ An Cơ rồi nói “Chúng mày bán có mấy con cá mà suốt ngày cãi vã nhau”, ông T nghe vậy, cho rằng bị cáo chửi mẹ của mình nên chửi lại bị cáo và cầm lấy 01 ống tuýp bằng kim loại dài khoảng 47cm, đường kính 3,5cm đuổi đánh bị cáo, bị cáo T bỏ chạy ngang qua sạp cá của bà Thúy thấy có 01 con dao bằng kim loại màu đen, dài 38,5cm, bản dao rộng 7,5cm nên lấy cầm trên tay, ông T lấy điện thoại di động trong túi quần ra bấm và nói với T “Mày đợi một phút hai mươi giây tao gọi người xuống xử mày”, bức xúc vì bị đuổi đánh và đe dọa, T cầm con dao chém 01 nhát về phía ông T, ông T đưa tay trái lên đỡ nên trúng vào mặt trước cẳng tay trái.

Theo Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 586/2020/GĐPY ngày 01/12/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Bình Dương kết luận bị hại ông T thương tích như sau: Vết thương cạnh trước tai trái 1,5x0,1cm, sẹo lành. Vết thương 1/3 giữa mặt trước cẳng tay trái 11 x 0,4, đứt bó mạch thần kinh trụ, thần kinh giữa, tĩnh mạnh nền, đứt gân gấp cổ tay trụ, gân gấp cổ tay quay, gân gấp nông sâu các ngón, đã phẫu thật khâu nối gân cơ, thần kinh, sẹo lành. Di chứng: Tổn thương nhánh thần kinh trụ và nhánh thần kinh giữa, teo cơ gian cốt, bàn tay vuốt trụ, co rút gân ngón 2, 3, 4, 5 tay trái. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 27%.

Bản Cáo trạng số 35/CT-VKS -TA ngày 13/01/2021 của Viện kiểm sát nhân dân T phố Thuận An, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Phạm Văn T về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa:

- Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân T phố Thuận An, tỉnh Bình Dương giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị:

Về trách nhiệm hình sự:

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm e, b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 60 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo từ 02 năm 03 tháng đến 02 năm 09 tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 04 năm 06 tháng đến 05 năm.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy: 01 con dao và 01 ống tuýp bằng kim loại.

- Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, T nhất tội danh, khung hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị áp dụng, không có ý kiến tranh luận. Lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, để bị cáo có cơ hội sửa chữa lỗi lầm, trở thành công dân tốt.

Người làm chứng: Bà Đào Thị T khai nhận mâu thuẫn giữa bà và bà Nguyễn Thị T là do bà T khi làm cá có văng nước bẩn vào tô cơm của bà T đang ăn, bà Ty nhắc nhở thì bị bà T lớn tiếng chửi, xúc phạm. Khi bị cáo (chồng bà T) trong nhà đi ra chửi bà T nhưng ông T lại chửi và cầm ống tuýp đuổi đánh bị cáo, bị cáo bức xúc mới xảy ra vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an T phố Thuận An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân T phố Thuận An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan Điều tra, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án như biên bản xác định hiện trường, kết luận giám định, biên bản trích xuất dữ liệu hình ảnh, lời khai của bị hại, người làm chứng, vật chứng thu giữ, có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 11/9/2020, tại khu vực chợ An Cơ thuộc khu phố B, phường A, Thành phố T, tỉnh Bình Dương. Sau khi bị ông Nguyễn Văn T chửi rồi cầm ống tuýp đuổi đánh và hù dọa thì bị cáo nhặt con dao tại quầy bán cá của mẹ ông T chém 01 nhát trúng vào mặt trước cẳng tay trái của ông T gây thương tích. Theo kết luận giám định pháp y thì tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên của ông T là 27%.

Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu T tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] Bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân T phốThuận An đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Xét Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi, nhận thức được việc làm của mình là vi phạm nhưng chỉ vì bức xúc và bị kích động trước hành vi trái pháp luật của bị hại, bị cáo không tìm cách ứng xử khác phù hợp đạo đức, pháp luật mà sử dụng dao, là hung khí nguy hiểm chém bị hại gây thương tích. Hành vi của các bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của người khác, gây mất trật tự, trị an tại địa phương, lỗi của bị cáo là cố ý trực tiếp, do đó cần xử phạt bị cáo với mức án tương xứng nhằm đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[5] Về nhân thân: Bị cáo có nhận thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo T khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã tự nguyện bồi thường cho bị hại, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bị cáo phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của bị hại gây ra; cha của bị cáo có công với Nhà nước, thương binh 61% là những tình tiết giảm nhẹ theo điểm e, b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[8] Xét thấy bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, công việc ổn định, hoàn cảnh gia đình khó khăn, có khả năng tự cải tạo, việc cho bị cáo hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội nên áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và hướng dẫn của Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/8/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao, cho bị cáo hưởng án treo, tự cải tạo ở địa phương.

[9] Lời đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ, đúng pháp luật nên chấp nhận.

[10] Đối với hành vi bị hại sử dụng ống tuýp bằng kim loại đuổi đánh bị cáo, gây mất trật tự công cộng, Công an T phố Thuận An đã quyết định xử phạt hành chính 2.500.000 đồng vào ngày 20/12/2020. [11] Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại vắng mặt tại phiên tòa, nhưng trong hồ sơ thể hiện đã thỏa thuận nhận số tiền bồi thường chi phí chữa trị 250.000.000 đồng của bị cáo, có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, không yêu cầu gì thêm nên không xem xét.

[12] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát Điều tra thu giữ:

01 con dao do bị cáo sử dụng chém bị hại, 01 ống tuýp bằng kim loại do bị hại sử dụng đuổi đánh bị cáo, không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[13] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm e, b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 60 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

- Điều 106; 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015;

- Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về trách nhiệm hình sự:

Tuyên bố bị cáo Phạm Văn T phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Xử phạt bị cáo Phạm Văn T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 5 (năm) năm tính từ ngày tuyên án (26/01/2021).

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường An Phú, T phố Thuận An, tỉnh Bình Dương để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự năm 2019.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự năm 2019 hai lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của Bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 con dao bằng kim loại màu đen, dài 38,5cm, bản dao rộng 7,5cm, 01 ống tuýp bằng kim loại màu trắng, dài 47cm, đường kính 3,5cm.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 13/01/2021) giữa Công an và Chi cục Thi hành án dân sự T phố Thuận An).

3. Về án phí:

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

137
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2021/HS-ST ngày 26/01/2020 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:23/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về