Bản án 23/2021/HS-ST ngày 21/05/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 23/2021/HS-ST NGÀY 21/05/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 5 năm 2021, tại Tòa án nhân dân huyện VN, tỉnh Thái Nguyên mở phiên toà công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 22/2021/TLST-HS ngày 29 tháng 4 năm 2021; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2021/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

- Họ và tên: Đào Trung T; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày: 01 tháng 5 năm 1985; Nơi đăng ký HKTT và nơi cư trú: xóm MG, xã PT, VN, Thái Nguyên: Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 5/12; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Con ông Đào Trung T (Đã chết) và bà Nguyễn Thị M (Đã chết); Gia đình có 04 anh chị em, bị cáo là con thứ 02; Vợ: Hoàng Thị G, sinh năm 1993, trú tại: xóm MG, xã PT, huyện VN, tỉnh Thái Nguyên; Con: 01 con (sinh năm 2019); Tiền án, Tiền sự: Không có.

- Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/12/2020, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện VN, tỉnh Thái Nguyên, có mặt.

- Người làm chứng:

+ Anh Giáp Văn C, sinh năm 1975, vắng mặt.

Địa chỉ: xóm MG, xã PT, huyện VN, tỉnh Thái Nguyên.

+ Anh Hoàng Đình H, sinh năm 1978, vắng mặt.

Địa chỉ: thôn NH, xã VL, huyện BS, tỉnh Lạng Sơn.

+ Anh Hoàng Văn Th, sinh năm 1975, vắng mặt.

Địa chỉ: thôn QT, xã VL, huyện BS, tỉnh Lạng Sơn.

- Người chứng kiến:

+ Ông Hoàng Xuân K, sinh năm 1956, vắng mặt.

Địa chỉ: Xóm MG, xã PT, huyện VN, tỉnh Thái Nguyên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ 30 phút ngày 28/12/2020, Công an xã PT nhận được tin báo của quần chúng nhân dân có một số đối tượng tụ tập tại khu vực xóm MG, xã PT có biểu hiện tàng trữ, mua bán, sử dụng trái phép chất ma túy, khi đến nơi Tổ công tác Công an xã PT phát hiện một nam thanh niên có biểu hiện nghi vấn vi phạm pháp luật nên đã yêu cầu người này dừng lại để kiểm tra. Nam thanh niên khai tên Đào Trung T, sinh năm 1985, nơi cư trú: xóm MG, xã PT, huyện VN. Quá trình kiểm tra T đã tự giác lấy từ túi quần phía trước bên trái đang mặc 01 gói giấy màu vàng chứa chất màu trắng dạng bột giao nộp cho tổ công tác và khai nhận đó là ma túy loại Heroine của T đang cất giấu trong người mục đích để bán kiếm lời. Tổ công tác đã tiến hành niêm phong gói giấy chứa chất màu trắng trên vào trong phong bì ký hiệu T1 và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang với Đào Trung T về hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Ngoài ra Tổ công tác còn tạm giữ 01 điện thoại Nokia màu đen, 01 điện thoại Samsung màu vàng và số tiền 1.000.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Cùng ngày Công an xã PT bàn giao hồ sơ, vật chứng cùng đối tượng Đào Trung T cho Cơ quan CSĐT Công an huyện VN để điều tra theo thẩm quyền.

Cùng ngày Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện VN đã tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở, địa điểm đối với Đào Trung T tại xóm MG, xã PT, huyện VN, tỉnh Thái Nguyên, qua khám xét phát hiện thu giữ tại vị trí trên nóc tủ lạnh để trong nhà bếp của T 01 (một) gói giấy màu trắng loại giấy vệ sinh, mở lớp giấy này ra bên trong là lớp giấy gói màu trắng, gói chất màu trắng dạng bột nghi là ma túy và niêm phong vào trong phong bì kín ký hiệu T4.

Cơ quan CSĐT Công an huyện VN đã tiến hành mở niêm phong, cân xác định khối lượng và lấy mẫu gửi giám định chất ma túy đối với chất màu trắng dạng bột nghi là ma túy có trong phong bì niêm phong ký hiệu T1 đã xác định được khối lượng là 0,146 gam. Đã lấy toàn bộ số chất màu trắng dạng bột nêu trên niêm phong vào phong bì kín ký hiệu M1 để làm mẫu vật gửi giám định. Tiến hành mở niêm phong, cân xác định khối lượng và lấy mẫu gửi giám định chất ma túy đối với chất màu trắng dạng bột nghi là ma túy có trong phong bì niêm phong ký hiệu T4 là vật chứng thu giữ trong quá trình khám xét nơi ở của T đã xác định được khối lượng là 0,077 gam. Đã lấy toàn bộ số chất màu trắng dạng bột nêu trên niêm phong vào phong bì kín ký hiệu M2 để làm mẫu vật gửi giám định.

Tại bản Kết luận giám định số 135/KL-KTHS ngày 05/01/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Mẫu chất màu trắng dạng bột trong phong bì ký hiệu M1, M2 gửi giám định là chất ma túy loại Heroine, tổng khối lượng là 0,223 gam.

Tại Cơ quan điều tra Đào Trung T khai nhận: Bản thân T là người nghiện chất ma túy loại Heroine, do không có việc làm ổn định nên T nảy sinh ý định mua ma túy về vừa để sử dụng cho bản thân và để bán cho những người nghiện khác để kiếm lời. Do hết ma túy để sử dụng và để bán kiếm lời nên khoảng 18 giờ 30 phút ngày 27/12/2020 T một mình đi đến khu vực Cầu Rắn thuộc thị trấn ĐC để tìm mua ma túy, tại đây T đã gặp người đàn ông không quen biết, qua thỏa thuận T đã mua của người đàn ông trên 01 gói ma túy loại Heroine dạng bột được gói trong 01 gói giấy bạc một mặt màu vàng một mặt màu trắng với giá 300.000 đồng. Khi về đến nhà T đã lấy ra một phần để bản thân sử dụng, số ma túy còn lại T gói lại để trên nóc tủ lạnh. Đến khoảng 10 giờ ngày 28/12/2020 Giáp Văn C gọi điện hỏi T có ma túy thì bán cho C 100.000 đồng, T đồng ý và hẹn đến cổng nhà T để bán cho C, sau đó T chia phần Heroine ra rồi gói vào một mảnh giấy bạc một mặt màu vàng một mặt màu trắng rồi cho vào túi quần bên trái đang mặc trên người, số Heroine còn lại T gói lại rồi để trên nóc tủ lạnh ở nhà bếp. Khi đang đứng đợi C đến mua ở cổng nhà mình thì T bị Công an xã PT phát hiện bắt giữ người và vật chứng như đã nêu trên.

Mở rộng điều tra T còn khai nhận trước đó đã bán 06 lần ma túy loại Heroine cho những người nghiện khác để kiếm lời. Cụ thể:

- Khoảng 8 giờ ngày 16/12/2020 tại xóm MG, xã PT T bán 01 gói Heroine cho Giáp Văn C tên thường gọi là “C Duyên”, sinh năm 1975, là người cùng xóm với giá 200.000 đồng.

- Khoảng 09 giờ ngày 18/12/2020 tại khu vực đường Quốc lộ 1B thuộc xã VL, huyện BS, tỉnh Lạng Sơn T bán cho Hoàng Văn Th, sinh năm 1975, trú tại thôn QT, xã VL, huyện BS, tỉnh Lạng Sơn 01 gói Heroine với giá 100.000 đồng.

- Khoảng 08 giờ ngày 21/12/2020 tại xóm MG, xã PT, huyện VN, tỉnh Thái Nguyên T bán cho Hoàng Đình H, sinh năm 1978, trú tại thôn NH, xã VL, huyện BS, tỉnh Lạng Sơn 01 gói Heroine với giá 100.000 đồng.

- Khoảng 15 giờ ngày 23/12/2020 tại xóm MG, xã PT, huyện VN, tỉnh Thái Nguyên T bán cho Giáp Văn C tên thường gọi là “C Duyên”, sinh năm 1975 là người cùng xóm 02 gói Heroine với giá 400.000 đồng.

- Khoảng 9 giờ ngày 25/12/2020 tại xóm MG, xã PT, huyện VN T bán cho Giáp Văn C tên thường gọi là “C Duyên”, sinh năm 1975 là người cùng xóm 01 gói Heroine với giá 100.000 đồng.

- Khoảng 10 giờ 30 ngày 25/12/2020 tại xóm MG, xã PT, huyện VN, tỉnh Thái Nguyên T bán cho Hoàng Đình H, sinh năm 1978, trú tại thôn NH, xã VL, huyện BS, tỉnh Lạng Sơn 01 gói Heroine với giá 100.000 đồng.

Tại cơ quan điều tra Giáp Văn C, Hoàng Văn Th, Hoàng Đình H đã khai báo toàn bộ hành vi vi phạm của mình, lời khai của các đối tượng phù hợp với lời khai của Đào Trung T về thời gian, địa điểm, phương thức giap dịch. Do đó có đủ căn cứ để xác định T đã bán Heroine cho C, H, Th như đã nêu trên.

Lời khai nhận tội của Đào Trung T phù hợp với các tài liệu thu thập được trong quá trình điều tra như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản khám xét, lời khai của người làm chứng, người chứng kiến, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, vật chứng đã thu giữ, Kết luận giám định và các tài liệu khác thu thập có trong hồ sơ vụ án.

Do có hành vi trên tại bản Cáo trạng số 23/CT-VKSVN ngày 28 tháng 4 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện VN, tỉnh Thái Nguyên truy tố bị cáo Đào Trung T về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Kết thúc phần xét hỏi, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện VN luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Đào Trung T về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự. Sau khi đánh giá chứng cứ đã đề nghị xử phạt đối với bị cáo như sau:

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt Đào Trung T từ 9 năm đến 10 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ tạm giam.

Về hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự phạt tiền bị cáo từ 5.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy ma túy và toàn bộ vật chứng liên quan đến việc sử dụng và mua bán ma túy của T; Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen cũ đã qua sử dụng có số IMEI: 352055/02/052476/3 gắn sim di động thuê bao số: 0911271237; Truy thu 1.000.000 đồng tiền do bị cáo bán ma túy đã tiêu sài hết sung vào Ngân sách Nhà nước; Tạm giữ 1.000.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu vàng đồng cũ đã qua sử dụng số IMEI: 356164071375533 gắn 01 sim di động số 0982214078 của bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nhất trí với bản luận tội, không có tranh luận.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo nói lời sau cùng xin được hưởng mức án thấp nhất để bị cáo có cơ hội sửa chữa trở thành người công dân tốt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện VN, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện VN, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã mô tả, bị cáo xác định cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện VN truy tố là đúng người, đúng tội.

Xét thấy lời nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa là tự nguyện, khách quan, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản khám xét, biên bản niêm phong vật chứng, biên bản xác định trọng lượng, Bản kết luận giám định về chất ma túy. Như vậy, có đủ cơ sở để xác định: Do bản thân là đối tượng nghiện ma túy nên Đào Trung T thường xuyên mua ma túy về để bản thân sử dụng và bán kiếm lời. Nên vào các ngày từ ngày 16/12/2020 đến ngày 25/12/2020 Đào Trung T đã có hành vi 06 lần bán trái phép chất ma túy loại Heroine cho Giáp Văn C, Hoàng Đình H, Hoàng Văn Th. Đến khoảng 10 giờ ngày 28/12/2020 khi đang ở nhà riêng tại xóm MG, xã PT, huyện VN, tỉnh Thái Nguyên khi T đang cất giấu 01 gói Heroine có trọng lượng 0,146 gam Heroine mục đích để bán cho Giáp Văn C, nhưng chưa kịp bán thì bị Tổ công tác Công an xã PT, huyện VN, tỉnh Thái Nguyên bắt quả tang cùng một số đồ vật tài liệu có liên quan. Cơ quan điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp đối với chỗ ở, địa điểm của T thu giữ 01 gói Heroine có trọng lượng 0,077gam.

Hành vi của bị cáo Đào Trung T đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Nội dung điều luật quy định như sau:

1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

b) Phạm tội 02 lần trở lên”.

Do vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện VN truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Xét tính chất hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý độc dược của Nhà nước, làm mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Ma túy là một loại độc dược gây nghiện khi sử dụng nó sẽ làm con người bị lệ thuộc và mất đi nhân cách, nó còn là một trong những nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm khác. Hành vi nêu trên của bị cáo T bị pháp luật ngăn cấm, bị xã hội lên án, do đó cần phải bị xử phạt mức án nghiêm khắc để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4]. Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5]. Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo có bố được Nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến sỹ vẻ vang hạng ba, Huân chương chiến sỹ giải phóng hạng nhì do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[6]. Xét về nhân thân của bị cáo: Bị cáo T xuất thân từ gia đình làm nông nghiệp, khi còn nhỏ được gia đình nuôi ăn học đến hết lớp 9/12 sau đó nghỉ học ở nhà làm ruộng. Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy nên thường xuyên mua ma túy về sử dụng cho bản thân và bán kiếm lời, trong các ngày từ ngày 16/12/2020 đến ngày 25/12/2020 bị cáo đã mua ma tuý về để sử dụng cho bản thân và bán cho các con nghiện, ngày 28/12/2020 thì bị bắt về hành vi mua bán trái phép chất ma tuý.

[7]. Căn cứ vào tính chất, mức độ tội phạm do bị cáo thực hiện, sau khi xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân đối với bị cáo. Hội đồng xét xử thấy rằng cần thiết phải cách ly xã hội đối với bị cáo mới đủ điều kiện để giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung, đồng thời cần tiếp tục tạm giam đối với bị cáo để đảm bảo việc thi hành án.

[8]. Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự còn có quy định: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Xét thấy bị cáo mua ma túy về sử dụng cho bản thân và bán cho các đối tượng nghiện ma túy để kiếm lời và không thuộc hộ nghèo, cận nghèo nên áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo 10.000.000 đồng.

[9]. Về vật chứng của vụ án cần được xử lý như sau:

- 01 phong bì niêm phong ký hiệu M1 bên trong có chứa 0,132gam ma túy loại Heroin và 01 phong bì niêm phong ký hiệu M2 bên trong có chứa 0,060gam ma túy loại Heroin hoàn trả sau giám định và toàn bộ vật chứng liên quan đến hành vi mua bán ma túy của bị cáo. Đây là số vật chứng cấm tàng trữ và mua bán và vật không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy;

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen cũ đã qua sử dụng có số IMEI: 352055/02/052476/3 gắn sim di động thuê bao số: 0911271237 đang tạm giữ của bị cáo, đây là công cụ phương tiện bị cáo dùng để liên lạc mua bán ma túy nên cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước;

- 1.000.000 đồng tiền bị cáo bán ma túy cho các con nghiện (số tiền này bị cáo đã tiêu sài hết), đây là số tiền do bị cáo bán ma túy mà có nên cần buộc bị cáo nộp sung vào ngân sách Nhà nước.

- 1.000.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu vàng đồng cũ đã qua sử dụng số IMEI:

356164071375533 gắn 01 sim di động số 0982214078 tạm giữ của bị cáo, đây là tiền và tài sản do bị cáo lao động mà có nên trả lại cho bị cáo, tuy nhiên cần tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án.

[10]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[11]. Xét đề nghị của VKSND huyện VN về hình phạt cũng như các vấn đề khác trong vụ án là phù hợp nên được chấp nhận.

[12]. Về nguồn gốc số ma túy Heroine thu giữ của Đào Trung T ngày 28/12/2020 Tkhai mua của người đàn ông ở khu vực cầu Rắn, thị trấn ĐC nhưng T không quen biết, không biết rõ họ tên, địa chỉ nên cơ quan điều tra không có cơ sở xác minh làm rõ.

Đối với Hoàng Văn Th ngày 01/01/2021 đã bị khởi tố bị can, bắt tạm giam về tội tàng trữ trái phép chất ma túy trong một vụ án khác. Đối với Giáp Văn C và Hoàng Đình H cơ quan điều tra đã chuyển tài liệu có liên quan đến công an xã nơi các đối tượng cư trú để lập hồ sơ đưa các đối tượng vào diện quản lý giáo dục tại địa phương theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Đào Trung T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

1. Về hình phạt: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt: Đào Trung T 9 (chín) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 28/12/2020.

Áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự, Quyết định tạm giam bị cáo Đào Trung T 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo việc thi hành án.

2. Về hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 5 Điều 251 phạt tiền bị cáo 10.000.000 đồng.

3. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong ký hiệu M1 bên trong có chứa 0,132 gam ma túy loại Heroin và vỏ phong bì kín ký hiệu M1 hoàn trả sau giám định;

01 phong bì niêm phong ký hiệu M2 bên trong có chứa 0,060 gam ma túy loại Heroin và vỏ phong bì kín ký hiệu M2 hoàn trả sau giám định; 01 phong bì niêm phong ký hiệu V1 ghi bên trong có chứa 01 mảnh giấy màu vàng và 01 vỏ phong bì niêm phong cũ ký hiệu T1; 01 phong bì niêm phong ký hiệu V2 ghi bên trong chứa 01 mảnh giấy màu trắng loại giấy vệ sinh, 01 mảnh giấy màu trắng và 01 vỏ phong bì niêm phong cũ ký hiệu T4.

+ Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen cũ đã qua sử dụng có số IMEI: 352055/02/052476/3 gắn sim di động thuê bao số: 0911271237 trong phong bì niêm phong ký hiệu N1.

+ Buộc bị cáo nộp vào ngân sách Nhà nước: 1.000.000 đồng tiền do bị cáo bán ma túy mà có.

+ Tạm giữ để đảm bảo thi hành án: 1.000.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu vàng đồng cũ đã qua sử dụng số IMEI: 356164071375533 gắn 01 sim di động số 0982214078 của bị cáo trong phong bì niêm phong ký hiệu N1.

(Vật chứng đã được chuyển đến Chi cục THADS huyện Võ Nhai theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện VN với Chi cục THA dân sự huyện VN, tỉnh Thái Nguyên ngày 13/5/2021; số tiền theo giấy uỷ nhiệm chi số 74 ngày 06/5/2021).

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/ 2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễm, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án;

Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm sung vào ngân sách Nhà nước.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2021/HS-ST ngày 21/05/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:23/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Võ Nhai - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về