Bản án 23/2021/HS-ST ngày 20/01/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 23/2021/HS-ST NGÀY 20/01/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 01 năm 2021, tại Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 327/2020/TLST-HS ngày 01 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2021/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo:

Phạm Thanh T (tên gọi khác: Đen, Ba Dú), sinh năm 1995 tại tỉnh Thừa Thiên – Huế; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Không xác định; Nơi ở: 105/76/19 L, Phường T, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Cha: Phạm Dũng C; Mẹ: Trương Thị H; Tiền án: Năm 2016, bị Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu xử phạt 5 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” theo Bản án số 83/2016/HSST ngày 20-5-2016, chấp hành xong hình phạt ngày 30-8-2019; Tiền sự: Không.

Bị bắt ngày 23-7-2020 (có mặt tại phiên tòa).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Phạm Thanh A, sinh năm 1991; địa chỉ: 33/1X, Phường T, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 00 phút ngày 23-7-2020, trước nhà số 26D3 đường 30/4, Phường 9, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Vũng Tàu bắt quả tang Phạm Thanh T đang tàng trữ trái phép chất ma túy (Methamphetamine) nhằm mục đích bán cho con nghiện.

Quá trình điều tra, Phạm Thanh T khai nhận: T sử dụng ma túy từ tháng 8 năm 2019. Số ma túy bị cơ quan chức năng thu giữ, T mua của một người phụ nữ tên Huyền (không rõ nhân thân lai lịch) tại thành phố Hồ Chí Minh với giá 2.000.000 đồng để sử dụng và bán cho con nghiện kiếm lời. Trước ngày bị bắt quả tang 2 ngày, cũng tại địa chỉ trên, T đã bán cho một người tên Mi một gói ma túy đá với giá 500.000 đồng.

Lời khai của Phạm Thanh T phù hợp với chứng cứ thu thập được, phù hợp với lời khai của người chứng kiến anh Lê Văn Tài.

Tại Kết luận giám định số 348/GĐMT - PC09(Đ2) ngày 31-7-2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu kết luận: Mẫu chất kết tinh không màu trong suốt được niêm phong trong một phong bì màu trắng, có hình dấu của Công an phường 9, Công an thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, cùng các chữ ký ghi họ tên: Trung tá Phạm Thanh Hùng, Lê Tiến Diện, Phạm Thanh T, Lê Văn Tài gửi đến giám định có khối lượng 5,0281 gam là ma túy loại Methamphetamine.

Việc thu giữ và xử lý vật chứng: Cơ quan chức năng tiến hành thu giữ vật chứng và các tài sản gồm: 01 gói ni lon hàn kín bên trong có chứa chất kết tinh không màu trong suốt qua giám định là Methamphetamine, có khối lượng là 5,0281gam; 01 điện thoại di động hiệu Nokia có số IMEL: 355848092155186;

01 điện thoại di động hiệu Iphone có số IMEL: 353028091253009; 01 xe mô tô biển số 72K5 - 4726, số máy M9BFD-002399, số khung 002399.

Đối với xe mô tô tô biển số 72K5 - 4726 qua xác minh là xe do chị Phạm Thanh A (chị ruột của T) đứng tên chủ sở hữu. Chị A cho T mượn xe và không biết T sử dụng xe vào việc phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Vũng Tàu đã ra quyết định trả lại xe cho chị A. Chị A đã nhận lại xe và không có ý kiến gì thêm.

Số vật chứng và tài sản còn lại được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Vũng Tàu chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vũng Tàu quản lý, chờ xử lý.

Bản cáo trạng số 309/CT-VKSTPVT ngày 27 tháng 11 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu đã truy tố bị cáo Phạm Thanh T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i, q khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố đối với bị cáo Phạm Thanh T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i, q khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Thanh T từ 7 năm 6 tháng đến 8 năm 6 tháng tù; Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong số 348/GĐMT- PC09(Đ2) ngày 31-7-2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu là tang vật vụ án và tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia, trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Iphone; Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có công việc, không có thu nhập nên đề nghị không phạt tiền đối với bị cáo.

Bị cáo Phạm Thanh T đã khai nhận về toàn bộ hành vi của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã truy tố và không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về kết luận giám định hay các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Bị cáo đã thấy việc làm của mình là vi phạm pháp luật, tỏ ra ăn năn, hối cải và xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Về sự vắng mặt của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án tại phiên tòa: người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án đã có lời khai tại cơ quan điều tra, việc vắng mặt không ảnh hưởng đến việc xét xử nên Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Thanh T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu đã truy tố. Xét lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định: Ngày 23-7-2020, Phạm Thanh T đã có hành vi tàng trữ trái phép 5,0281 gam ma túy loại Methamphetamine. Số ma túy này, Trí tàng trữ nhằm mục đích bán cho người khác để kiếm lời.

Bị cáo đã bị kết án về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 136 Bộ luật Hình sự 1999, chưa được xóa án tích lại thực hiện hành vi phạm tội về tội rất nghiêm trọng do cố ý nên thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm.

Vì vậy, hành vi do bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm i, q khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Đối với người phụ nữ tên Huyền đã bán ma túy trái phép cho Trí và người tên Mi mua ma túy của T, hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch. Đề nghị Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, để xử lý theo quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng đối với hành vi phạm tội của bị cáo:

Xét hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội; đã xâm phạm đến quyền quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy; gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội. Bị cáo có nhân thân xấu, ngoài tiền án về tội “Cướp giật tài sản” thì năm 2011, bị cáo bị kết án về tội “Giết người” nên cần phải xử lý nghiêm, áp dụng mức hình phạt tù có thời hạn tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm đối với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm cải tạo, giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[4.1] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4.2] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà cải tạo cho tốt, làm người có ích cho gia đình và xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là con nghiện, không có khả năng thi hành án nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng vụ án:

- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy là tang vật vụ án.

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia là phương tiện bị cáo dùng để liên lạc mua bán ma túy.

- Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Iphone vì không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.

[7] Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm i, q khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố: Phạm Thanh T (Đen, Ba Dú) phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Phạm Thanh T (Đen, Ba Dú) 8 (tám) năm 6 (sáu) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày 23 tháng 7 năm 2020.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) gói niêm phong số 348/GĐMT-PC09(Đ2) ngày 31-7-2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu;

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia có số IMEL: 355848092155186;

- Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Iphone có số IMEL: 353028091253009.

Vật chứng nêu trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vũng Tàu đang quản lý theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 72/BB.THA ngày 14 tháng 01 năm 2021.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án (đối với người vắng mặt cũng 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bán án được niêm yết công khai) để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

152
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2021/HS-ST ngày 20/01/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:23/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về