Bản án 23/2021/HS-ST ngày 11/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 23/2021/HS-ST NGÀY 11/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 19/2021/TLST - HS ngày 25 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/2021/QĐXXST - HS ngày 28 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Đăng C, sinh năm 1964 tại Nam Định.

Nơi ĐKHKTT và nơi ở: Số 29/105 đường V, phường V, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hóa: 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đăng C (Đã chết) và con bà Bùi Thị H (Đã chết); có vợ là Trần Thị H (Đã ly hôn) và 02 con; tiền án: Ngày 05-9-2014, bị Tòa án nhân dân thành phố Nam Định xử phạt 36 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và phạt tiền bị cáo C 5.000.000đồng. Ngày 24-01-2017 bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù nhưng đến nay vẫn chưa chấp hành hình phạt bổ sung; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 15-6-2010 bị Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; ngày 18-4-2014, bị Công an phường V, thành phố Nam Định xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 14-01-2021 cho đến nay. “Có mặt”.

- Người tham gia tố tụng khác - Người làm chứng:

+ Anh Phạm Quyết T, sinh năm 1989; “Vắng mặt”.

+ Ông Phạm Văn P, sinh năm 1961; “Vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 20 giờ ngày 13-01-2021, Nguyễn Đăng C một mình điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream BKS 98F7-4944 đi từ nhà C ra khu vực ba tầng thuộc thành phố Nam Định để tìm mua ma túy về sử dụng. Tại đây, C đã gặp và mua được 01 gói ma túy từ một người đàn ông với giá 100.000đồng (C không biết tên, tuổi, địa chỉ của người đàn ông này). Sau khi mua được, C ngậm gói ma túy trong miệng rồi điều khiển xe mô tô đi đến khu vực xã T, huyện V, tỉnh Nam Định để tìm nơi sử dụng. Khi C đi đến khu vực đê sông Đào thuộc xã T, huyện V thì gặp tổ Công tác của Công an xã T đang làm nhiệm vụ tại đây, thấy C có biểu hiện khả nghi nên đã yêu cầu C dừng xe để kiểm tra. Biết không thể che giấu được nên C đã tự giác lấy gói ma túy đang ngậm trong miệng mình để giao nộp cho Công an. Gói ma túy thu giữ của C có đặc điểm vỏ ngoài là nilong màu trắng, bên trong là lớp giấy bạc màu vàng, trong cùng chứa chất bột dạng cục màu trắng (C khai nhận đây là ma túy, loại ma túy Heroine, C mua để sử dụng cho bản thân). Công an xã T đã tiến hành niêm phong gói ma túy thu giữ của C trong phong bì thư, ký hiệu M và đưa C cùng tang vật về trụ sở UBND xã T để điều tra, giải quyết.

Tại bản kết luận giám định số 73/GĐKTHS ngày 14-01-2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định đã kết luận: Mẫu chất bột dạng cục màu trắng trong 01 gói giấy bạc màu vàng bên ngoài bọc nilong màu trắng trong phong bì thư được niêm phong ký hiệu M gửi giám định là ma túy. Loại ma túy: Heroine. Khối lượng mẫu M là : 0,115 gam.

Tại bản Cáo trạng số 20/CT - VKSVB ngày 24-3-2021 của Viện kiểm sát nhận dân huyện V, tỉnh Nam Định đã truy tố Nguyễn Đăng C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

* Bị cáo C đã thành khẩn khai nhận về hành vi tàng trữ trái phép ma túy của mình và xin giảm nhẹ một phần hình phạt.

* Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên toà giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” như bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đăng C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Đăng C từ 18 tháng đến 24 tháng tù.

Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy đã thu giữ của C.

- Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo C phải chịu theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ và tội danh đối với hành vi của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa, lời khai của những người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thu thập trong quá trình điều tra như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; Bản kết luận giám định .... Nên có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 21 giờ 05 phút, ngày 13-01-2021 tại khu vực đê sông Đào thuộc địa phận xã T, huyện V, tỉnh Nam Định, Nguyễn Đăng C đã có đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,115 gam Heroin với mục đích để sử dụng thì bị tổ công tác Công an xã T phát hiện, bắt quả tang.

Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Do đó, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội: Hành vi nêu trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội vì đã xâm phạm tới chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội tại địa phương. Tệ nạn về ma túy hiện nay đang là một vấn nạn của toàn xã hội, là một trong những nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

[4.1] Về tình tiết tăng nặng: Ngày 05-9-2014, bị cáo C bị Tòa án nhân dân thành phố Nam Định xử phạt 36 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và phạt tiền 5.000.000đồng. Ngày 24-01-2017, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù, nhưng cho đến nay bị cáo vẫn chưa chấp hành xong hình phạt bổ sung theo Quyết định của bản án số 307/2014/HSST ngày 05-9-2014 của Tòa án nhân dân thành phố Nam Định. Như vậy, căn cứ khoản 2 Điều 70 của Bộ luật Hình sự thì bị cáo chưa được xóa án tích, lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp “Tái phạm”. Do đó, bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[4.2] Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51của Bộ luật Hình sự.

[4.3] Về nhân thân: Bị cáo C có nhân thân xấu. Đối với bản án số 41/2010/HSPT ngày 15-6-2010 của Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 70; Điều 7 của Bộ luật Hình sự năm 2015 và điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH 14; áp dụng quy định có lợi cho người phạm tội, thì bị cáo được đương nhiên xóa án tích.

[5] Về đường lối xử lý: Căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo; Hội đồng xét thấy bị cáo C là người nghiện ma túy và cố ý thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với mục đích sử dụng. Điều đó chứng tỏ ý thức chấp hành pháp luật của bị cáo rất kém, nên cần phải có mức hình phạt nghiêm minh đối với bị cáo và phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có đủ các điều kiện để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho gia đình, cho xã hội và để răn đe, giáo dục phòng ngừa chung.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo nghề nghiệp tự do, thu nhập không ổn định; việc tàng trữ ma túy với mục đích để sử dụng; nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6]. Về xử lý vật chứng: Cần tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy là Heroine đã thu giữ của bị cáo.

Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream có số khung DU100*200152288*, số máy: LC150FMG*01864238*, qua điều tra xác định chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream có số khung, số máy như nêu trên không phải là chiếc xe mô tô có BKS là 98F7-4944 và không xác định được chủ sở hữu hợp pháp. Vì vậy Công an huyện V xác minh xử lý sau là cần thiết.

[7]. Trong vụ án này, Nguyễn Đăng C khai đã mua ma túy của một người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ tại khu vực ba tầng thuộc thành phố Nam Định, qua điều tra chưa xác định được người này, nên cơ quan điều tra Công an huyện V tách ra để điều tra xử lý sau.

[8]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự:

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đăng C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Xử phạt bị cáo Nguyễn Đăng C 24 (Hai bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 14-01-2021.

3. Xử lý vật chứng: Căn cứ §iÒu 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy số ma túy là Heroin đã thu giữ (01 phong bì niêm phong số 73/GĐKTHS của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định).

(Vật chứng có đặc điểm như biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngµy 26-3-2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện V).

4. Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Nguyễn Đăng C phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

5. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiện thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2021/HS-ST ngày 11/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:23/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vụ Bản - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về