TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH BẮC KẠN
BẢN ÁN 01/2021/HS-ST NGÀY 19/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 19 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bắc Kạn, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 01/2021/TLST- HS, ngày 09 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2021/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:
Bế Ích M, sinh ngày 26/10/1971, tại huyện B, tỉnh Bắc Kạn; Nơi ĐKHKTT và nơi ở hiện nay: Thôn B, xã Q, huyện B, tỉnh Bắc Kạn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bế Ích P (đã chết) và bà Đồng Thị T (đã chết); Có vợ là Phương Thị Ng và 02 con; tiền án: Không; tiền sự: Không; Nhân thân: Tốt; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 01/6/2020 đến ngày 04/6/2020 thì được tại ngoại cho đến nay có mặt tại phiên tòa.
* Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nông Thị Chiên - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bắc Kạn. Có mặt.
* Người chứng kiến:
- Lâm Văn D; sinh năm 1990. Vắng mặt.
- Đỗ Văn H; sinh năm 1984. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 07 giờ 45 phút, ngày 01/6/2020, tổ công tác thuộc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B đang thực hiện nhiệm vụ tại Tiểu khu 2, thị trấn C, huyện B thì phát hiện Bế Ích M có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra hành chính phát hiện, thu giữ tại nếp gấu áo phông của Bế Ích M đang mặc 04 gói nhỏ, trong đó: 02 gói được gói bằng giấy trắng bên trong đều chứa chất bột màu trắng, hồng nghi là chất ma túy; 02 gói được gói bằng giấy tráng kim loại màu vàng bên trong mỗi gói đều có 02 gói nhỏ được gói bằng giấy trắng, bên trong các gói đều chứa chất dạng bột màu trắng, hồng nghi là chất ma túy niêm phong vào phong bì ký hiệu A1; 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng, nhãn hiệu Oppo màu đỏ đen đã qua sử dụng tại túi quần bên trái đang mặc của Bế Ích M. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với bị cáo M và đưa đối tượng cùng tang vật về trụ sở Công an huyện B để điều tra làm rõ. Đồng thời tiến hành khám xét chỗ ở của bị cáo Bế Ích M, qua khám xét không thu giữ đồ vật gì.
Tại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B đã tiến hành mở niêm phong để cân xác định khối lượng 06 gói chất dạng cục và bột màu trắng thu giữ của bị cáo Bế Ích M được 0,36 gam (niêm phong trong phong bì ký hiệu B1). Sau đó tiến hành bàn giao cho Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn để trưng cầu giám định.
Tại Kết luận giám định số: 83/KTHS-MT ngày 05/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bắc Kạn kết luận: Mẫu chất bột màu trắng, hồng trong phong bì ký hiệu B1 gửi giám định là ma túy, loại Heroine và Methamphetamine, có khối lượng là 0,36 g (không phẩy ba sáu gam). Sau giám định, mẫu chất trong phong bì ký hiệu B1 còn lại là 0,20 gam cùng phong bì, bao gói cũ được niêm phong vào phong bì mới ký hiệu T83 và hoàn trả lại cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện B quản lý theo quy định.
Bị cáo Bế Ích M khai nhận: Bản thân là người nghiện ma túy nên khoảng giữa tháng 5/2020, bị cáo M đi ô tô khách sang thị trấn B, huyện Ch, khi đến đoạn đường gần Trung tâm y tế huyện Ch, tỉnh Bắc Kạn, bị cáo gặp một người đàn ông có biểu hiện nghiện chất ma túy (không biết họ, tên, tuổi và địa chỉ) nên hỏi mua ma túy và được người đàn ông đồng ý. Bị cáo M đưa cho người đó 500.000 đồng và được người đàn ông đưa cho một gói ma túy. Khi về bị cáo đem gói ma túy vừa mua ra sử dụng một ít, phần còn lại bị cáo chia thành 06 gói nhỏ, cất vào túi quần và đi về nhà. Đến buổi tối ngày 31/5/2020, bị cáo lấy 06 gói ma túy trên cho vào nếp gấu áo phông. Sáng hôm sau, ngày 01/6/2020, bị cáo mặc áo phông có cất giấu ma túy đi đến cơ sở điều trị để uống thuốc Methadone. Khi ngồi uống nước tại quán thì bị cơ quan công an phát hiện bắt quả tang, lập biên bản thu giữ 06 gói ma túy. Ngoài ra, còn tạm giữ của bị cáo 01 chiếc điện thoại di động.
Bản Cáo trạng số: 22/CT-VKSBB ngày 03/10/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Bắc Kạn đã truy tố bị cáo Bế Ích M về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Trước cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Bế Ích M đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B duy trì quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố về tội danh, điều luật áp dụng đối với bị cáo Bế Ích M theo Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Bế Ích M phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm i khoản 1, khoản 5 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Bế Ích M từ 12 tháng đến 15 tháng tù.
Về hình phạt bổ sung: Đề nghị phạt tiền đối với bị cáo từ 5.000.000 đồng đến 6.000.000 đồng.
Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự để xử lý vật chứng:
- Tịch thu, tiêu hủy toàn bộ số vật chứng không có giá trị sử dụng gồm: 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu B2 bên trong có chứa toàn bộ giấy gói chất ma túy thu được và phong bì niêm phong cũ, 01 phong bì mẫu hoàn trả đã niêm phong ký hiệu T83, bên trong phong bì có chứa: Mẫu chất trong phong bì ký hiệu B1 còn lại là: 0,20 g (Không phẩy hai không gam) cùng phong bì, bao gói cũ. Tình trạng phong bì niêm phong còn nguyên vẹn. Mặt trước phong bì có ghi vụ Bế Ích M (1971) tàng trữ trái phép chất ma túy, ký hiệu “T83”, mặt sau có 04 chữ ký không đọc được cùng 02 dấu tròn của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn.
- Tạm giữ 01 (một) điện thoại di động màn hình cảm ứng, nhãn hiệu Oppo màu đỏ đen, điện thoại cũ đã qua sử dụng, bị cáo sử dụng để liên lạc với người thân, bạn bè không liên quan tới hành vi phạm tội để đảm bảo thi hành án cho bị cáo.
- Tạm giữ số tiền 1.500.000 đồng bị cáo nộp tạm ứng để thi hành án theo biên lai thu tiền số 03637 ngày 18/11/2020 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện B.
Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật. Trong phần tranh luận người bào chữa cho bị cáo đồng ý với bản luận tội của đại diện viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức khởi điểm của khung hình phạt là 12 tháng tù; bị cáo không có ý kiến tranh luận. Lời nói sau cùng: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và xin Hội đồng xét xử cho bị cáo hưởng hình phạt nhẹ nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra huyện B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện B, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; quyết định tố tụng được ban hành đúng thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử những người tham gia tố tụng không ai khiếu nại về quyết định, hành vi của Cơ quan, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về căn cứ định tội, định khung hình phạt:
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Bế Ích M đều thừa nhận: Sáng ngày 01/6/2020, bị cáo mặc áo phông có cất giấu ma túy đi đến cơ sở điều trị để uống thuốc Methadone. Khi ngồi uống nước tại quán thì bị cơ quan công an phát hiện bắt quả tang, lập biên bản thu giữ 06 gói ma túy, tổng khối lượng ma túy thu giữ được của bị cáo Mến là 0,36 gam gồm Heroine và Methamphetamine. Mục đích bị cáo Mến mua ma túy về chỉ để sử dụng cho bản thân.
Bị cáo là người có đủ năng lực hành vi nhưng bị cáo vẫn thực hiện tội phạm với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Điều luật có nội dung:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
...
i) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này.” Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người chứng kiến cùng tài liệu, chứng cứ đã thu thập được và phù hợp với thời gian, địa điểm xảy ra tội phạm. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận Bế Ích M đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 như bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Bắc Kạn đã truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:
- Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt.
- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đó là: Trong các giai đoạn tố tụng bị cáo đều "Thành khẩn khai báo" là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Ngoài ra, bị cáo có bố đẻ là ông Bế Ích Pèng được tặng bằng có công với nước và ngày 18/11/2020 bị cáo nộp số tiền 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng) tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện B để đảm bảo thi hành án cho bị cáo nên Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, mặt khác góp phần tiếp tay làm gia tăng tệ nạn sử dụng ma tuý và tội phạm khác ở địa phương, gây mất an ninh trật tự, khiến quần chúng nhân dân bất bình lên án, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, do đó cần cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định mới cải tạo và giáo dục bị cáo trở thành người công dân lương thiện, có ích cho xã hội.
Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không thuộc hộ nghèo, cận nghèo nên cần thiết phải có hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.
[4] Về vật chứng:
* Tịch thu, tiêu hủy toàn bộ số vật chứng không có giá trị sử dụng gồm:
- 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu B2 bên trong có chứa toàn bộ giấy gói chất ma túy thu được và phong bì niêm phong cũ.
- 01 phong bì mẫu hoàn trả đã niêm phong ký hiệu T83, bên trong phong bì có chứa: Mẫu chất trong phong bì ký hiệu B1 còn lại là: 0,20 g (Không phẩy hai không gam) cùng phong bì, bao gói cũ. Tình trạng phong bì niêm phong còn nguyên vẹn. Mặt trước phong bì có ghi vụ Bế Ích M (1971) tàng trữ trái phép chất ma túy, ký hiệu “T83”, mặt sau có 04 chữ ký không đọc được cùng 02 dấu tròn của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn.
* Đối với 01 (một) điện thoại di động màn hình cảm ứng, nhãn hiệu Oppo màu đỏ đen, điện thoại cũ đã qua sử dụng, bị cáo sử dụng để liên lạc với người thân, bạn bè không liên quan tới hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo. Tuy nhiên, cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo.
* Đối với số tiền 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng) bị cáo nộp tạm ứng để thi hành án theo biên lai thu tiền số 03637 ngày 18/11/2020 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện B cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo.
(Tình trạng, số lượng vật chứng như biên bản giao, nhận vật chứng ngày 14/10/2020 giữa Công an huyện B, tỉnh Bắc Kạn với Chi cục Thi hành án Dân sự huyện B, tỉnh Bắc Kạn).
[5] Về vấn đề khác: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo M có khai mua ma túy của người đàn ông không rõ danh tính, họ tên, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ để xử lý.
[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm i khoản 1, khoản 5 Điều 249; Điều 38; Điều 47; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Điều 106, Điều 136 của Bộ luật tố tụng Hình sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án và danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo.
1. Tuyên bố: Bị cáo Bế Ích M phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
2. Xử phạt bị cáo Bế Ích M 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án được trừ đi số ngày bị cáo bị tạm giữ (từ ngày 01/6/2020 đến ngày 04/6/2020).
Hình phạt bổ sung: Phạt tiền bị cáo Bế Ích M 5.000.000đ (Năm triệu đồng) để sung công quỹ Nhà nước.
3. Về vật chứng:
* Tịch thu, tiêu hủy toàn bộ số vật chứng không có giá trị sử dụng gồm:
- 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu B2 bên trong có chứa toàn bộ giấy gói chất ma túy thu được và phong bì niêm phong cũ.
- 01 phong bì mẫu hoàn trả đã niêm phong ký hiệu T83, bên trong phong bì có chứa: Mẫu chất trong phong bì ký hiệu B1 còn lại là: 0,20 g (Không phẩy hai không gam) cùng phong bì, bao gói cũ. Tình trạng phong bì niêm phong còn nguyên vẹn. Mặt trước phong bì có ghi vụ Bế Ích M (1971) tàng trữ trái phép chất ma túy, ký hiệu “T83”, mặt sau có 04 chữ ký không đọc được cùng 02 dấu tròn của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn.
* Tạm giữ 01 (một) điện thoại di động màn hình cảm ứng, nhãn hiệu Oppo màu đỏ đen, điện thoại cũ đã qua sử dụng của bị cáo Bế Ích M để đảm bảo thi hành án cho bị cáo.
* Tạm giữ số tiền 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 03637 ngày 18/11/2020 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện B để đảm bảo thi hành án cho bị cáo.
(Tình trạng, số lượng vật chứng như biên bản giao, nhận vật chứng ngày 14/10/2020 giữa Công an huyện B, tỉnh Bắc Kạn với Chi cục Thi hành án Dân sự huyện B, tỉnh Bắc Kạn).
4. Về án phí: Bị cáo Bế Ích M phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6,7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.
Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, báo cho biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 01/2021/HS-ST ngày 19/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 01/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bạch Thông - Bắc Kạn |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/11/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về