Bản án 23/2020/HS-ST ngày 17/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG ẢNG - TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 23/2020/HS-ST NGÀY 17/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay, ngày 17 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở TAND huyện Mường Ảng mở phiên tòa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số:18/2020/TLST-HS, ngày 24 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2020/QĐXXST-HS, ngày 04/12/2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Thị U; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nữ; Sinh năm 1962, nơi sinh: huyện MA, tỉnh Điện Biên; Nơi cư trú: Bản CN, xã BL, huyện MA, tỉnh Điện Biên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hoá: Không; Bố đẻ: Lò Văn H (đã chết) và mẹ đẻ Lò Thị E (đã chết); Bị cáo có 09 anh chị em ruột, bị cáo là con thứ tám trong gia đình; Bị cáo có chồng là Lường Văn D (đã chết) và có 04 người con, con lớn sinh năm 1982, con nhỏ sinh năm 1988; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Chưa bị xử lý hành chính;chưa bị kết án.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam là 03 ngày (từ ngày 12/10/2020 đến ngày 15/10/2020). Ngày 15/10/2020 Bị cáo được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện bị cáo đang tại ngoại; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa cho bị cáo Lò Thị U: Ông Nguyễn Quang K– Luật sư thực hiện trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên. (Có mặt tại phiên tòa) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, bị cáo Lò Thị U bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 06 giờ ngày 12/10/2020 Lò Thị U đang bán quán tại nhà của gia đình thì có một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết đến hỏi U có mua Hồng phiến (Methamphetamine) để chữa bệnh cho gà vịt hay không? U trả lời có và mua của người đàn ông này 13 viên Methamphetamine được gói bằng mảnh ni lông màu trắng với giá 300.000đ. Mua được Methamphetamine U cất giấu vào trong túi bằng vải màu đỏ đang đeo trên người nhằm chữa bệnh dần cho vật nuôi của gia đình bị bệnh. Hồi 10 giờ 00 phút ngày 12/10/2020, U đang ở quán bán hàng của gia đình thì tổ công tác Công an xã BL vào vận động nếu có ma túy thì mang ra giao nộp, U đã tự giác lấy toàn bộ 13 viên Methamphetamine có khối lượng 1,30 gam bên trong túi vải màu đỏ đang đeo trên người ra giao nộp cho tổ công tác. Tổ công tác lập biên bản bắt quả tang, niêm phong thu giữ vật chứng vụ án.

Theo biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng, lấy mẫu giám định ngày 12/10/2020 của Công an huyện Mường Ảng và Kết luận giám định số 923/GĐ-PC09, ngày 21 tháng 10 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận:

- Mẫu viên nén màu hồng trích ra từ vật chứng thu giữ của Lò Thị U gửi giám định là chất ma túy: Loại Methamphetamine - Khối lượng vật chứng thu giữ của Lò Thị U là: 1,30 gam.

- Methamphetamine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 323, mục IIC, danh mục II Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018.

Tại bản cáo trạng số: 76/CT-VKS-MA ngày 24/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân Huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên đã truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Mường Ảng để xét xử bị cáo Lò Thị U về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Tại phiên toà, vị đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo U: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và khoản 1,2,5 điều 65 của BLHS xử phạt bị cáo Lò Thị U từ 18 đến 24 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 36 đến 48 tháng. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

* Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 46; điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a, c khoản 2 điều 106 BLTTHS đề nghị Hội đồng xét xử: Tịch thu để tiêu hủy 1,10 gam Methamphetamine là vật chứng còn lại của vụ án sau khi trích mẫu gửi giám định và 01 túi vải màu đỏ, có dây đeo, đã qua sử dụng.

* Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và có đơn xin miễn án phí. Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự điểm đ khoản 1 điều 12 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Đề nghị Hội đồng xét xử miễn án phí HSST cho bị cáo.

Nội dung bản luận cứ của người bào chữa cho bị cáo nhất trí với nội dung cáo trạng đã truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS; Bản thân bị cáo là người dân tộc thiểu số, không được học hành gì do đó nhận thức pháp luật còn hạn chế, khi tổ công tác đến nhà vận động bị cáo đã tự nguyện giao nộp ma túy cho tổ công tác, quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được qui định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS, đề nghị Hội đồng xét xử khi quyết định hình phạt xem xét cho bị cáo được hưởng mức hình phạt thấp nhất của khung hình phạt và áp dụng Điều 65 BLHS xử phạt tù cho bị cáo được hưởng án treo. Bị cáo là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và có đơn xin miễn án phí, đề nghị Hội đồng xét xử miễn toàn bộ án phí HSST cho bị cáo và không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Bị cáo U thừa nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như cáo trạng truy tố. Bị cáo nhất trí nội dung bản Cáo trạng cũng như bản luận tội của VKSND huyện Mường Ảng, nội dung bản luận cứ bào chữa cho bị cáo, bị cáo không có tranh luận gì.

Bị cáo nói lời sau cùng trước khi nghị án: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án và đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Nội dung vụ án:

Qua phần tranh tụng công khai tại phiên tòa bị cáo Lò Thị U đã khai và công nhận: Hồi 10 giờ 00 phút ngày 12/10/2020, tại quán bán hàng ở nhà của gia đình thuộc bản CN, xã BL, huyện MA, tỉnh Điện Biên Lò Thị U bị bắt vì đang tàng trữ trái phép 1,30 gam Methamphetamine, mục đích của bị cáo tàng trữ ma túy để chữa bệnh vật nuôi của gia đình. Lời khai nhận tội của bị cáo trước phiên tòa ngày hôm nay phù hợp với các tài liệu và chứng cứ có trong hồ sơ, cũng như cáo trạng số 76/CT-VKS-MA, ngày 24/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Ảng đã truy tố.

Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để chữa bệnh cho vật nuôi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội; Bị cáo tàng trữ trái phép 1,30 gam Methamphetamine đủ định lượng buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi phạm tội của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn thực hiện. Do vậy Hội đồng xét xử có đủ căn cứ pháp lý để xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại khoản 1 Điều 249 BLHS quy định: “Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

c) Heroine … có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 5 gam".

[2] Xét về tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm thấy rằng: Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp tội phạm nghiêm trọng, gây nguy hại lớn cho xã hội có mức cao nhất của khung hình phạt đến 5 năm tù, được quy định tại khoản 1 Điều 9 Bộ luật hình sự năm 2015. Vì vậy bị cáo phải chịu hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội đã gây ra.

[3] Xét về hậu quả của hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra, Hội đồng xét xử thấy rằng: Hành vi tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm trực tiếp đến sự độc quyền của nhà nước trong lĩnh vực quản lý và sử dụng các chất ma túy, đã tiếp tay cho các loại tội phạm gia tăng, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an trên địa bàn, cần phải được xử lý nghiêm.

[4] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Từ nhỏ bị cáo được bố mẹ nuôi dưỡng, không được học hành gì, lớn lên ở nhà lao động sản xuất, năm 1981 xây dựng gia đình với ông Lường Văn D và có 02 người con chung. Bản thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Ngày 12/10/2020 bị cáo đã mua và tàng trữ 1,30 gam Methamphetamine để chữa bệnh cho vật nuôi. Ma túy không phải là thuốc chuyên dùng để chữa bệnh cho vật nuôi, bị cáo nhận thức được việc tàng trữ, mua bán ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng để chữa bệnh cho vật nuôi của gia đình bị cáo vẫn cố tình phạm tội. Vì vậy, cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo; tuy nhiên, tại phiên tòa cũng như trong quá trình điều tra, bị cáo đã thành khẩn khai báo thể hiện sự ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình, khi tổ công tác Công an xã BL vào vận động, bị cáo đã tự nguyện giao nộp và khai báo về số ma túy khi chưa bị Công an phát hiện (Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự qui định tại khoản 2 Điều 51 BLHS “Đầu thú”), bản thân bị cáo nhận thức pháp luật còn hạn chế nên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cần xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của BLHS năm 2015. Bị cáo không phạm các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 của BLHS năm 2015.

Từ những phân tích, nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra là cần thiết để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người sống có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời nhằm răn đe, phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử thấy bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, bản thân bị cáo đã cao tuổi. Để tạo điều kiện cho bị cáo học tập, lao động trong cộng đồng xã hội và cũng thể hiện chính sách giáo dục hơn trừng trị của pháp luật Việt Nam đối với người phạm tội. Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1,2,5 Điều 65 của Bộ luật hình sự phạt tù cho bị cáo hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách để bị cáo có điều kiện làm ăn sinh sống, nuôi bản thân và gia đình.

Bị cáo U với nguồn thu nhập chính là làm ruộng, không có thu nhập nào khác, gia đình bị cáo khó khăn về kinh tế, không có khả năng thi hành hình phạt bổ sung bằng tiền, do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng.

[5] Đối với người đàn ông dân tộc Mông mà Lò Thị U khai bán ma túy cho U, do bị cáo không biết tên, địa chỉ của người này, ngoài lời khai của U không còn tài liệu, chứng cứ nào khác nên không có đủ điều kiện để xác minh làm rõ.

[6] Vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 46; điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a, c khoản 2 điều 106 BLTTHS: Tịch thu để tiêu hủy 1,10 gam Methamphetamine là vật chứng còn lại của vụ án sau khi trích mẫu gửi giám định và 01 túi vải màu đỏ, có dây đeo, đã qua sử dụng.

[7] Án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và có đơn xin miễn án phí. Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự điểm đ khoản 1 điều 12 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Hội đồng xét xử miễn án phí HSST cho bị cáo.

[8] Quyết định truy tố của VKSND huyện Mường Ảng; ý kiến của vị đại diện VKS, ý kiến của bị cáo, người bào chữa cho bị cáo qua phần tranh tụng công khai tại phiên tòa về tội danh, hình phạt và các vấn đề khác liên quan đến vụ án. Hội đồng xét xử thấy phù hợp với nội dung vụ án và nhận định của Hội đồng xét xử nên cần chấp nhận.

[9] Trong quá trình điều tra, truy tố: Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng qui định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Lò Thị U phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 65 của Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017: Xử phạt bị cáo Lò Thị U 24 (hai mươi bốn) tháng tù cho hưởng án treo thời gian thử thách là 48 (bốn mươi tám) tháng. Thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (17/12/2020).

Giao bị cáo Lò Thị U cho UBND xã BL, huyện MA, tỉnh Điện Biên giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã BL để giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Trường hợp bị cáo Lò Thị U thay đổi nơi cư trú trong phạm vi huyện MA, tỉnh Điện Biên thì Ủy ban nhân dân xã BL - huyện MA - tỉnh Điện Biên có trách nhiệm thông báo cho cơ quan thi hành án hình sự Công an huyện Mường Ảng để làm thủ tục chuyển giao hồ sơ thi hành án treo cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người được hưởng án treo đến cư trú để giám sát, giáo dục.

Trường hợp Lò Thị U thay đổi nơi cư trú ngoài phạm vi huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh thì cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện có trách nhiệm làm thủ tục chuyển hồ sơ thi hành án treo cho cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người được hưởng án treo đến cư trú để tổ chức việc thi hành án theo quy định tại Điều 68 của Luật thi hành án hình sự năm 2019 và thông báo bằng văn bản cho Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 46; điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a, c khoản 2 điều 106 BLTTHS: Tịch thu để tiêu hủy 1,10 gam Methamphetamine là vật chứng còn lại của vụ án sau khi trích mẫu gửi giám định và 01 túi vải màu đỏ, có dây đeo, đã qua sử dụng.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Mường Ảng và Chi Cục thi hành án dân sự huyện Mường Ảng lập ngày 25/11/2020).

3. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự điểm đ khoản 1 điều 12 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Hội đồng xét xử miễn án phí HSST cho bị cáo.

4. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 23/2020/HS-ST ngày 17/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:23/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Ảng - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về