Bản án 23/2019/HS-ST ngày 27/02/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN PHÚ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 23/2019/HS-ST NGÀY 27/02/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 02 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Phú xét sử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 07/2019/TLST-HS ngày 11 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/2019/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Đức T, sinh ngày 03/12/1989; Tại Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: Ấp Đ, xã B, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Nhân viên; Trình độ văn hóa: 08/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam, Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam, Con ông không xác định và bà Nguyễn Thị D; Tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 11/10/2018; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 01 giờ 00 phút ngày 11/10/2018, Đội Cảnh sát điều tra về ma túy Công an quận Tân Phú kiểm tra hành chính quán bar Newhost tại địa chỉ số 198 Đường L, phường H, quận Tân Phú phát hiện Nguyễn Đức T đứng tại bàn Vip 12 có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra thu giữ trong túi áo khoác bên trái có 01 gói thuốc lá hiệu Jet bên trong có 01 gói nylon chứa tinh thể không màu (m1) và trong túi áo khoác bên phải một hộp nhựa hiệu Halls XS bên trong có 05 viên nén hình tròn màu xanh khắc ký hiệu LV(m2).

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Đức T khai nhận: T là nhân viên của quán bar Newhost, T đã bán ma túy được một tuần, trung bình mỗi ngày bán được từ 01 đến 03 viên thuốc lắc, từ nửa gói đến một gói ma túy khay, có ngày bán được có ngày không bán được; thuốc lắc T bán với giá 250.000 đồng/viên, ma túy khay bán với giá 400.000 đồng/bịch; Từ khi bán ma túy đến khi bị bắt T thu lợi được khoảng 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng, số tiền này T đã tiêu xài cá nhân hết. Mục đích T mua ma túy để sử dụng và bán kiếm lời, ngày 11/10/2018 T mua ma túy chưa bán được thì bị bắt.

Tại Kết luận giám định số 1686/KLGĐ-H ngày 19/10/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

Gói 1: Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m1 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,4829g (không phẩy bốn tám hai chín gam), loại Ketamine.

Gói 2: 05 viên nén tròn màu xanh có khắc chữ “LV” được ký hiệu mẫu m2 cần giám định là ma túy ở thể rắn có khối lượng 1,6783g (một phẩy sáu bảy tám ba gam), loại MDMA.

Vật chứng thu giữ theo Phiếu nhập kho vật chứng số 323/PNK ngày 19/10/2018 gồm:

 + 02 (hai) gói niêm phong số 1686 bên ngoài có chữ ký của giám định viên Huỳnh Thanh Thảo.

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo màu xanh, số imei 866376041993418.

+ 01 (một) điện thoại hiệu Nokia màu đen, số imei 1: 356950091151098.

+ 01 (một) xe gắn máy hiệu Honda màu đỏ biển số 59L1-232.33, số máy JF18E-5088673, số khung RLHJF18087Y588819.

Tại Cáo trạng số 18/CT-VKSQTP ngày 10/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân quận Tân Phú để xét xử bị cáo Nguyễn Đức T tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Căn cứ vào những chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ;

Sau khi nghe lời khai nhận tội của bị cáo;

Sau khi nghe ý kiến tranh luận và đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú về mức án đối với bị cáo Nguyễn Đức T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Do nghiện ma túy và muốn kiếm lợi bất chính nên vào khoảng 01 giờ 00 phút ngày 11/10/2018, Nguyễn Đức T bị bắt quả tang về hành vi mua bán trái phép 0,4829g (không phẩy bốn tám hai chín gam), loại Ketamine và 1,6783g (một phẩy sáu bảy tám ba gam), loại MDMA tại quán bar Newhost số 198 Đường L, phường H, quận Tân Phú.

Đối với đối tượng tên Beo do không xác định được nhân thân, lai lịch nên chưa đủ cơ sở để xử lý hình sự.

Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với tang vật chứng thu giữ, phù hợp với các chứng cứ khác được thu thập trong quá trình điều tra nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Do đó, cáo trạng đã truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, phát tán cái chết trắng trong cộng đồng, làm phát sinh các tệ nạn và tội phạm khác, gây mất an ninh trật tự, bản thân bị cáo thừa biết ma túy là chất gây nghiện mang tính độc hại cao, bị nhà nước cấm mua bán dưới bất kỳ hình thức nào. Bản thân bị cáo nghiện ma tuý và tham lợi bất chính nên bất chấp mọi hậu quả lao vào con đường phạm tội, thực hiện hành vi mua bán ma tuý nhằm thỏa mãn nhu cầu cho bản thân.

Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải có mức án tương xứng, mới có tác dụng răn đe giáo dục đối với bị cáo và đảm bảo công tác phòng ngừa chung trong xã hội.

Tuy nhiên, khi lượng hình cũng xem xét bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự để áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm cho bị cáo một phần hình phạt lẽ ra bị cáo phải chịu. Về tình tiết tăng nặng: Không có.

[3] Đây là dạng tội, ngoài hình phạt chính còn có thể áp dụng hình phạt tiền bổ sung được quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự nên Hội đồng xét xử phạt bổ sung số tiền 5.000.000 đồng đối với bị cáo.

[4] Bị cáo khai nhận thu lợi bất chính 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng, vì vậy cần buộc bị cáo nộp lại để tịch thu sung quỹ Nhà nước.

[5] Về xử lý vật chứng:

+ Đối với 02 (hai) gói niêm phong số 1686 bên ngoài có chữ ký của giám định viên Huỳnh Thanh Thảo là vật Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

+ Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo màu xanh, số imei 866376041993418 và 01 (một) điện thoại hiệu Nokia màu đen, số imei 1: 356950091151098 thu giữ của T, xét không liên quan đến vụ án nên trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

+ Đối với 01 (một) xe gắn máy hiệu Honda màu đỏ biển số 59L1-232.33, số máy JF18E-5088673, số khung RLHJF18087Y588819, qua xác minh chiếc xe do T đứng tên chủ sở hữu xét không liên quan đến vụ án nên trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú đề nghị xử phạt bị cáo với mức án từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm 06 tháng tù là có cơ sở chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào khoản 1, khoản 5 Điều 251; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã sửa đổi bổ sung năm 2017.

Căn cứ vào Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Căn cứ vào điểm a Khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11/10/2018.

Phạt bổ sung bị cáo T số tiền 5.000.000 (năm triệu) đồng sung vào ngân sách nhà nước.

Buộc bị cáo T phải nộp lại số tiền 1.000.000 đồng (một triệu đồng) để tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

Về xử lý vật chứng: (Tình trạng vật chứng theo Phiếu nhập kho vật chứng số 323/PNK ngày 19/10/2018 của Công an quận Tân Phú).

Tịch thu tiêu hủy 02 (hai) gói niêm phong số 1686 bên ngoài có chữ ký của giám định viên Huỳnh Thanh Thảo .

Trả lại cho bị cáo T 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo màu xanh, số imei 866376041993418; 01 (một) điện thoại hiệu Nokia màu đen, số imei 1: 356950091151098 và 01 (một) xe gắn máy hiệu Honda màu đỏ biển số 59L1 – 232.33, số máy JF18E-5088673, số khung RLHJF18087Y588819 nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2019/HS-ST ngày 27/02/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:23/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Phú - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về