Bản án 23/2019/HS-ST ngày 05/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ - TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 23/2019/HS-ST NGÀY 05/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 05 tháng 3 năm 2019, tại phòng xử án Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 09/2019/HSST ngày 23 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2019/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Trung H (tên gọi khác: Không); sinh ngày 10 tháng 8 năm 1972 tại thị xã QY, tỉnh Quảng Ninh. Nơi cư trú: khu Lâm Sinh 2, phường MTh, thị xã QY, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hoá (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thế Ch, sinh năm: 1943 và bà Hoàng Thị B (đã chết); vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; bị bắt quả tang, tạm giữ từ ngày 02/11/2018 đến ngày 08/11/2018, tạm giam từ ngày 08/11/2018, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, có mặt tại phiên tòa.

Người chứng kiến:

1. Anh Phạm Đức H, sinh năm: 1973; địa chỉ: Tổ 01, khu Bạch Đằng, phường PhN, thành phố UB, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt tại phiên tòa.

2. Anh Bùi Văn Đ, sinh năm: 1969; địa chỉ: Tổ 01, khu Hiệp An 2, phường PhN, thành phố UB, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 15 giờ 40 phút ngày 02/11/2018, Tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Uông Bí phối hợp cùng Công an phường PhN, thành phố UB và Đoàn đặc nhiệm phòng chống tội phạm ma túy số 01 – Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển, trong khi làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 1, khu Bạch Đằng 1, phường PhN, thành phố UB, tỉnh Quảng Ninh đã bắt quả tang Nguyễn Trung H có hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý. Thu tại túi quần phía trước bên trái H đang mặc 01 gói giấy màu trắng kích thước khoảng (1x1)cm chứa chất bột màu trắng dạng cục có trọng lượng 0,157g (không phẩy một năm bảy gam). Ngoài ra, Công an còn thu giữ của H 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen có gắn sim số 0967358041; số tiền 65.000đ (Sáu mươi lăm nghìn đồng); 01 bơm kim tiêm y tế chưa qua sử dụng và 01 bản sao chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Trung H.

Tại cơ quan điều tra H khai nhận: Khoảng 14 giờ ngày 02/11/2018, H đi xe khách từ nhà sang khu vực bến xe ThL, thành phố Hải Phòng gặp một người đàn ông không rõ tên, tuổi tại quán nước bên trong bến xe hỏi mua 200.000 đồng ma túy của người này mục đích để sử dụng. Sau khi mua được ma túy H bắt xe khách về tỉnh Quảng Ninh. Khi xe đi đến khu vực Tổ 1, khu Bạch Đằng 1, phường PhN, thành phố UB thì bị bắt quả tang.

Tại bản Kết luận giám định số 688 ngày 05/11/2018 của Phòng kĩ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: Mẫu vật gửi giám định là ma túy, loại: Heroine; khối lượng: 0,157g (không phẩy một năm bảy gam).

Tại Cáo trạng số 20/CT-VKSUB ngày 21/01/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí đã truy tố Nguyễn Trung H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị:

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Trung H từ 12 đến 15 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 02/11/2018.

- Hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với bị cáo.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS, điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 BLTTHS, tịch thu tiêu hủy: 01 bơm kim tiêm y tế chưa qua sử dụng và 01 phong bì niêm phong số 688/GĐMT bên trong có 0,09 gam ma túy Heroine hoàn lại sau giám định, thu của Nguyễn Trung H; trả lại bị cáo số tiền 65.000đ, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Tại phiên tòa, bị cáo nhận tội và thừa nhận: Việc truy tố và đưa bị cáo ra xét xử là đúng người, đúng tội, không oan. Bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về các tài liệu, chứng cứ, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Uông Bí, của Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, của Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các tài liệu, chứng cứ, hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các tài liệu, chứng cứ, hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về việc định tội đối với bị cáo: Li khai của bị cáo Nguyễn Trung H tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai xác nhận của những người chứng kiến và nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ của bị cáo, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 15 giờ 40 phút ngày 02/11/2018, tại tổ 1, khu Bạch Đằng 1, phường PhN, thành phố UB, tỉnh Quảng Ninh, Nguyễn Trung H bị bắt quả tang khi đang thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 0,157g (Không phẩy một năm bảy gam) ma túy loại Heroine, mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội vì hành vi đó đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý chất ma tuý của Nhà nước và gây mất trật tự trị an xã hội, tạo lên dư luận xấu trong nhân dân. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí truy tố bị cáo và lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Về hình phạt:

[3.1] Hình phạt chính: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, để tăng cường biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm nói chung cũng như để giáo dục, cải tạo riêng đối với bị cáo cần có một hình phạt nghiêm, xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ để rèn luyện, giáo dục bị cáo sửa chữa lỗi lầm của bản thân để trở thành công dân tốt. Tuy nhiên xét thấy, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; có bố mẹ đẻ là người có công với cách mạng được Nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng ba. Nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[3.2] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ (Năm triệu đồng) đến 500.000.000đ (Năm trăm triệu đồng). Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo Nguyễn Trung H không có nghề nghiệp ổn định, không có thu nhập, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng:

- 01 bơm kim tiêm y tế chưa qua sử dụng, nhưng không còn giá trị sử dụng và 01 phong bì niêm phong hoàn lại sau giám định số 688/GĐMT của Phòng KTHS Công an tỉnh Quảng Ninh hoàn lại sau giám định còn nguyên vẹn, đây là chất Nhà nước cấm lưu hành, nên tịch thu tiêu hủy;

- Số tiền 65.000đ (sáu mươi lăm nghìn đồng) thu giữ của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội, nên trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen có gắn sim số 0967358041, quá trình điều tra xác minh không liên quan đến việc phạm tội, Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Nguyễn Hoài Đ (anh của bị cáo H), nên không đề cập xử lý.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[6] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[7] Đi với người thanh niên bán ma túy cho H, quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ, nên không có cơ sở để xử lý.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự;

1. Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Trung H phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Xử phạt: bị cáo Nguyễn Trung H 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ là ngày 02/11/2018.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng: điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 bơm kim tiêm y tế chưa qua sử dụng và 01 phong bì niêm phong hoàn lại sau giám định số 688/GĐMT của Phòng KTHS Công an tỉnh Quảng Ninh, bên trong có 0,09 gam ma túy Heroine hoàn lại sau giám định còn nguyên vẹn;

- Trả bị cáo số tiền 65.000đ (sáu mươi lăm nghìn đồng) nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Tình trạng và đặc điểm như Biên bản giao nhận vật chứng hồi 09 giờ, ngày 26 tháng 02 năm 2019 giữa Công an thành phố UB, tỉnh Quảng Ninh và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố UB, tỉnh Quảng Ninh).

4. Về án phí: Áp dụng: khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 3; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBNTQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Buộc bị cáo Nguyễn Trung H phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) vào ngân sách Nhà nước.

5. Về Quyền kháng cáo: Áp dụng: Điều 331; khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2019/HS-ST ngày 05/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:23/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về