Bản án 23/2017/HNGĐ-PT ngày 05/07/2017 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 23/2017/HNGĐ-PT NGÀY 21/08/2017 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày  05 tháng 7 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý 22/2017/TLPT-HNGĐ ngày 12 tháng  5 năm 2017 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình”.

Do Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm 12/2017/DSST-HNGĐ ngày 07 tháng 4 năm 2017 của Toà án nhân huyện L bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 17/2017/QĐ-PT ngày 15 tháng 6 năm 2017 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Vi Thị Q - Sinh năm 1997 (có mặt)

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Hữu L - Sinh năm 1992 (có mặt) Các đương sự đều địa chỉ: Thôn L, xã K, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

3. Người kháng cáo: Bị đơn anh Nguyễn Hữu L.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Bản án sơ thẩm và các tài liệu khác có trong hồ sơ, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Trong đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 11/7/2016 và những lời khai tiếp theo của nguyên đơn Chị Vi Thị Q trình bày:

Chị kết hôn với Nguyễn Hữu L trên cơ sở tự nguyện, có được tìm hiểu và được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương, có được đăng ký kết hôn tại UBND xã K, huyện L, tỉnh Bắc Giang vào ngày 08/12/2014, sau ngày cưới chị có về gia đình anh L làm dâu ngay, thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc không có mâu thuẫn gì, nhưng không được bao lâu vợ chồng chung sống thì phát sinh mâu thuẫn, có nhiều bất đồng quan điểm, không bảo ban được nhau trong làm ăn phát triển kinh tế dẫn đến hay to tiếng, anh L xúc phạm gia đình chị. Từ đó tình cảm vợ chồng có nhiều rạn nứt, tình cảm vợ chồng ngày càng lạnh nhạt không cải thiện được, anh chị đã ly thân với nhau khoảng hơn một năm nay không ai quan tâm gì đến nhau được nữa, quan hệ tình cảm vợ chồng cũng chấm dứt  từ đó. Nay chị nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt, đời sống chung không thể kéo dài, chị không thể đoàn tụ gia đình với anh Nguyễn Hữu L được nữa, nên chị đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Hữu L.

Về con chung: Có 01 cháu là Nguyễn Công M, sinh ngày 25/7/2014. Sau khi ly hôn chị có nguyện vọng nuôi dưỡng cháu M, chị không yêu cầu anh L đóng góp cấp dưỡng nuôi con, không đề nghị Toà án giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, công nợ chung, ruộng canh tác: Anh chị không có gì, chị không đề nghị Toà án giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Hữu L trình bày:

Về thời gian đăng kí kết hôn và quá trình chung sống như chị Q trình bày là đúng. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc không có mâu thuẫn gì, nhưng được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng anh đã sống ly thân được hơn một năm nay không còn quan hệ tình cảm với nhau nữa, anh cũng gọi chị Q về đoàn tụ gia đình nhưng chị Q không về. Nay anh nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng anh đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, không thể tiếp tục chung sống với nhau được nữa, Chị Vi Thị Q xin ly hôn anh hoàn toàn nhất trí.

Về con chung: Có 01 con chung là Nguyễn Công M, sinh ngày 25/7/2014. Sau khi ly hôn anh có nguyện vọng nuôi dưỡng cháu M, anh không yêu cầu chị Q góp cấp dưỡng nuôi con, không đề nghị Toà án giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, công nợ chung, ruộng canh tác: Anh chị không có gì, anh không đề nghị Toà án giải quyết.

Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số:12/2017/HNGĐ-ST ngày: 07/4/2017 của Tòa án nhân dân huyện L đã quyết định:

Áp dụng Điều 9; 51; 53; 56; 81; 82 và Điều 83 Luật hôn nhân gia đình; Điều28; 35; 147; 227; 271; 272; 273 và Điều 280 BLTTDS. Điều 5 và 27 pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án. Xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Vi Thị Q được ly hôn anh Nguyễn Hữu L.

Về con chung: Giao cho Chị Vi Thị Q nuôi con chung là Nguyễn Công M, sinh ngày 25/7/2014, anh L không phải cấp dưỡng nuôi con, vì chị Q không yêu cầu. Sau khi ly hôn anh L có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở anh L thực hiện quyền này.

Về án phí: Chị Vi Thị Q phải chịu 200.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị  đã nộp theo biên lai thu số AA/2015/0000694 ngày 28/11/2016 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện L.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định quyền kháng cáo cho các đương sự.

Ngày 21/4/2017 anh Nguyễn Hữu L làm đơn kháng cáo, cùng ngày nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm. Nội dung kháng cáo không đồng ý một phần bản án sơ thẩm về phần giải quyết nuôi con chung. Lý do kháng cáo: Việc Tòa án nhân dân huyện L xử giao cho Chị Vi Thị Q nuôi con chung là Nguyễn Công M-sinh ngày 25/7/2014 là không hợp lý. Vì chị Q không đảm bảo các điều kiện về tài chính, kinh tế, thời gian và tư cách của người mẹ.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Nguyên đơn Chị Vi Thị Q không rút đơn khởi kiện, bị đơn anh Nguyễn Hữu L không rút đơn kháng cáo. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Anh Nguyễn Hữu L trình bày: Anh không đồng ý để chị Q nuôi con chung vì chị Q không đủ tư cách, hiện nay anh đang nuôi cháu Minh. Chị Vy Thị Q trình bày: Chị không đồng ý với kháng cáo của anh L. Hiện chị đang đi làm công nhân ở khu công nghiệp Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh thu nhập khoảng 8.000.000đ/1 tháng và bán hàng qua mạng, đảm bảo điều kiện nuôi con chung

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang phát biểu ý kiến: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã được đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, để không chấp nhận kháng cáo của anh Nguyễn Hữu L, giữ nguyên bản án sơ thẩm về con chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai tại phiên toà. Căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Xét kháng cáo của anh Nguyễn Hữu L về việc anh xin được nuôi cháu M, Hội đồng xét xử thấy: Chị Vi Thị Q và anh Nguyễn Hữu L có 01 con chung là cháu Nguyễn Công M, sinh ngày 25/7/2014. Tòa án cấp sơ thẩm đã xử giao cho Chị Vi Thị Q trực tiếp nuôi con chung là Nguyễn Công M, sinh ngày 25/7/2014, anh L không phải cấp dưỡng nuôi con. Anh L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung. Xét thấy cháu Nguyễn Công M, sinh ngày 25/7/2014, đến nay cháu chưa đủ 03 tuổi, theo quy định của tại khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình thì: “Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”. Chị Q hiện đang đi làm công nhân tại khu công nghiệp Quế Võ, có thu nhập ổn định, có đủ điều kiện để trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con, nên Tòa án cấp sơ thẩm đã giao cháu M cho chị Q nuôi dưỡng là đảm bảo quyền lợi của trẻ em, phù hợp với Luật Hôn nhân và gia đình.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm anh Nguyễn Hữu L cũng không có các căn cứ, tài liệu, chứng cứ  để chứng minh việc Chị Vi Thị Q không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là cháu Nguyễn Công M. Anh L và chị Q cũng không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết nuôi con để đảm bảo lợi ích của con chung được tốt nhất. Do vậy,căn cứ khoản 1 điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của anh Nguyễn Hữu L và giữ nguyên bản án sơ thẩm về phần giải quyết con chung theo đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa. Nếu sau này chị Q là người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì anh L có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn theo Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về án phí phúc thẩm: Do không chấp nhận kháng cáo của anh L, giữ nguyên bản án sơ thẩm, nên anh Nguyễn Hữu L phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 148 Bộ luật tố tụng dân sự và khoản 1 Điều 28 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Vì các lẽ trên, căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự;

QUYẾT ĐỊNH

Không chấp nhận kháng cáo của anh Nguyễn Hữu L. Giữ nguyên bản án sơ thẩm về con chung

Áp dụng các điều 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và Gia đình. Khoản 1 Điều 148 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 28 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Xử:Về con chung: Giao cho Chị Vi Thị Q trực tiếp nuôi con chung Nguyễn Công M, sinh ngày 25/7/2014, anh L không phải cấp dưỡng nuôi con, vì chị Q không yêu cầu. Anh Nguyễn Hữu L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở anh L thực hiện quyền này.

- Về án phí phúc thẩm: Buộc anh Nguyễn Hữu L phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự phúc thẩm. Nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng đã nộp tạm ứng án phí phúc thẩm, theo biên lai số AA/2015/0000879 ngày 21/4/2017  tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện L. Xác nhận anh L đã nộp đủ án phí phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9  Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

414
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2017/HNGĐ-PT ngày 05/07/2017 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:23/2017/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:05/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về