Bản án 229/2017/HSST ngày 10/07/2017 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 229/2017/HSST NGÀY 10/7/2017 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 7 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 288/2017/HSST ngày 31/5/2017 đối với bị cáo:

Nguyễn Mạnh H, tên gọi khác: Bi; sinh năm 1987 tại Thành phố Hồ Chí Minh; giới tính: nam; nơi thường trú: 258/49B T.H.Đ, phường N , Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: không có nơi cư trú nhất định; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 12/12; con ông Nguyễn Mạnh T và bà Bùi Thị Mộng D; có vợ Lê Thị Phương T (đã ly hôn) và 01 con sinh năm 2011; tiền án, tiền sự: không. Bị bắt tạm giam ngày 11/12/2016. (có mặt).

Người bị hại: Ông Gaspard C, sinh năm: 1991; Quốc tịnh: Pháp; nơi lưu trú: P139 Khách sạn Majestic, Số 01 Đồng Khởi, phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt).

NHẬN THẤY

Theo bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 23 giờ 30 phút ngày 10/12/2016, Nguyễn Mạnh H điều khiển xe mô tô biển số 54L2-3673 lưu thông trên đường Hai Bà Trưng, Quận 1. Khi đến trước nhà số 101 Hai Bà Trưng, phường Bến Nghé, Quận 1, H nhìn thấy ông Gaspard C đang nói chuyện với anh Trần Thanh Anh Tuấn (nhân viên điều hành hãng xe taxi Mai Linh) trên tay ông Gaspard C cầm 01 điện thoại di động Iphone 6s màu xám. H nảy sinh ý định cướp giật nên điều khiển xe mô tô áp sát vào bên trái của ông Gaspard C rồi dùng tay phải giật điện thoại rồi điều khiển xe tẩu thoát. Nghe tiếng tri hô của ông Gaspard C, lực lượng tuần tra Công an Quận 1 đang làm nhiệm vụ đã đuổi theo đến Công trường Lam Sơn thì bắt được H, thu giữ vật chứng giao cho Công an phường Bến nghé, Quận 1 lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 177/KL-ĐGTS ngày 17/12/2016 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự UBND Quận 1 kết luận: 01 điện thoại di động Iphone 6s, màu xám trị giá 5.767.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số 235/CT-VKS-P2 ngày 25/5/2017, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Mạnh H về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 136 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Mạnh H thừa nhận hành vi phạm tội, cụ thể như sau: khoảng 23 giờ 30 phút ngày 10/12/2016, bị cáo điều khiển xe gắn máy biển số 54L2-3673 chạy trên đường Hai Bà Trưng nhìn thấy ông Gaspard C cầm điện thoại di động Iphone 6s nên nảy sinh ý định cướp giật, bị cáo điều khiển xe áp sát bên trái và dùng tay phải giật điện thoại trên tay ông Gaspard C rồi tẩu thoát. Sau đó, do bị té ngã nên bị bắt giữ cùng tang vật.

Sau khi kiểm tra toàn bộ lời khai của bị cáo, cùng với các tài liệu chứng cứ khác được đưa ra xem xét tại phiên tòa; đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Mạnh H về tội “Cướp giật tài sản”. Đề nghị hội đồng xét xử áp dụng điểm d khoản 2 Điều 136 của Bộ luật hình sự xử phạt Nguyễn Mạnh H từ 03-04 năm tù. Đồng thời đề nghị tịch thu sung quỹ chiếc xe mô tô của bị cáo dùng làm phương tiện phạm tội.

Bị cáo Nguyễn Mạnh H không tranh luận gì thêm, chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

XÉT THẤY

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Mạnh H đã khai nhận toàn bộ những hành vi sai trái do bị cáo gây ra tương tự như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã nêu trên.

Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như các biên bản hoạt động điều tra, biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung người bị hại, vật chứng thu giữ, bản kết luận giám định trị giá tài sản… nên 2 có đủ cơ sở xác định: vào khoảng 23 giờ 30 phút ngày 10/12/2016, Nguyễn Mạnh H điều khiển xe gắn máy biển số 54L2-3673 chạy xe trên đường Hai Bà Trưng nhìn thấy ông Gaspard C cầm điện thoại di động Iphone 6s nên đã điều khiển xe áp sát bên trái và dùng tay phải giật điện thoại của ông Gaspard C rồi tẩu thoát. Khi chạy đến Công trường Lam Sơn, H bị té ngã và bị bắt quả tang cùng tang vật.

Bị cáo đã sử dụng xe gắn máy là nguồn nguy hiểm cao độ, dễ gây nguy hiểm cho người đi đường và cho chính bản thân bị cáo để thực hiện hành vi cướp giật tài sản hết sức táo bạo và liều lĩnh. Do đó Viện kiểm sát Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố để xét xử bị cáo về tội danh “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 136 của Bộ luật hình sự là có cơ sở, đúng pháp luật.

Xét tính chất, mức độ tội phạm do bị cáo gây ra là rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây tâm lý hoang mang lo sợ, ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội và ảnh hưởng đến sự phát triển văn hóa du lịch, làm giảm niềm tin của người nước ngoài đối với Việt Nam nên cần phải xử phạt bị cáo với mức án tương xứng thì mới có tác dụng giáo dục riêng, răn đe và phòng ngừa chung.

Xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn và đã tỏ ra ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu, nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; tài sản chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại cho người bị hại thuộc trường hợp phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại. Với các tình tiết trên, cần áp dụng điểm g, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

Xét thấy hoàn cảnh của bị cáo khó khăn nên miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: ông Gaspard C đã nhận lại tài sản bị cướp giật và không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử ghi nhận không xem xét.

Vật chứng vụ án: Đối với 01 xe gắn máy biển số 54L2-3673 (biển số giả), số khung: RLCS5C64Y153080, số máy: 5C64-153094, bị cáo H khai mua vào năm 2012 của một người đàn ông không rõ lai lịch. Qua xác minh, chiếc xe này có biển số thật là 84C1-002.49 do bà Lê Thị Hoàng Yến đứng tên sở hữu, bà Yến khai đã bán xe này vào năm 2010 cho một người đàn ông không rõ lai lịch, nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Do chủ sở hữu xác định đã bán xe và bị cáo H cũng thừa nhận đã mua lại của người khác không rõ lai lịch và sử dụng xe trên vào việc phạm tội nên áp dụng Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu sung quỹ nhà nước.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Mạnh H phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 136; điểm g, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự xử phạt Nguyễn Mạnh H 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11/12/2016.

Áp dụng Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu sung quỹ nhà nước 01 xe hai bánh gắn máy, nhãn hiệu Yamaha, số loại: Sirius, biển số 54L2-3673; số khung: RLCS5C6409Y153080 (ghi theo số cà), số máy: 5C64-153094 (ghi theo số cà). (Theo biên bản giao nhận tang tài vật số 249/17 ngày 01/6/2017 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh).

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 (hai trăm ngàn) đồng. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

255
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 229/2017/HSST ngày 10/07/2017 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:229/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về