Bản án 228/2018/HS-ST ngày 30/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 228/2018/HS-ST NGÀY 30/11/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 230/2018/TLST-HS ngày 20 tháng 11 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 856/2018/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:

Nguyn Duy T, sinh năm: 1992, tại Thới B, tỉnh C (có mặt); Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Ấp Kinh 9, xã Tân Bằng, huyện Thới B, tỉnh C; Chỗ ở: Không nơi cư trú ổn định; nghề nghiệp: Thợ hàn; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Duy Th và bà Lê Thị Nh; vợ, con: Chưa có; tiền sự: Không; tiền án: 01 lần, cụ thể:

Ngày 20/6/2016, bị Tòa án nhân dân thành huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt ngày 13/4/2017, chưa chấp hành phần dân sự.

Nhân thân:

- Ngày 09/6/2009, bị Tòa án nhân dân huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau xử phạt 01 năm tù cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”, thời gian thử thách 01 năm 07 tháng 22 ngày, đã chấp hành xong.

- Ngày 01/9/2011, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau ra quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 24 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, chấp hành xong 17/01/2014.

Bị cáo đang bị tạm giam trong vụ án khác tại Nhà tạm giữ Công an huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau.

- Bị hại: Chị Tô Thị Th, sinh năm: 1973; nơi cư trú: Khóm 3, phường 9, thành phố C, tỉnh C (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ ngày 12/7/2018, Nguyễn Duy T đi bộ trên đường Nguyễn Trãi từ hướng Ủy ban phường 9, thành phố Cà Mau đến ngã tư Nguyễn Trãi – Phan Ngọc Hiển. Khi đi ngang Nhà hàng Nam Khang thuộc khóm 3, phường 9, thành phố Cà Mau phát hiện một xe đạp màu hồng đậu bên trong, không người trông coi nên T lén lút vào nhà dẫn xe đạp ra ngoài đường và lên xe chạy đi. Lúc này chị Tô Thị Th phát hiện truy hô và đuổi theo T, cùng lúc đó lực lượng Công an phường đang tuần tra đuổi theo vây bắt T. T bỏ xe, chạy bộ đến một con hẽm thuộc khóm 2, phường 9, thành phố Cà Mau thì bị bắt giữ.

Tang vật thu giữ gồm 01 xe đạp màu hồng của chị Tô Thị Th.

Tại kết luận định giá tài sản số: 133/KL-HĐĐG ngày 08/8/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Cà Mau kết luận, tính vào thời điểm tháng 07/2018: 01 xe đạp màu hồng có giá trị còn lại 2.475.000 đồng.

Tại cáo trạng số: 226/CT-VKS ngày 19/11/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố, kiểm sát xét xử giữ nguyên Quyết định truy tố theo cáo trạng số: 226/CT-VKS ngày 19/11/2018 và đề nghị: Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Duy T phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Về điều luật áp dụng và hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Duy T từ 09 tháng đến 12 tháng tù. Về trách nhiệm dân sự: Chị Tô Thị Th không yêu cầu bị cáo bồi thường nên không đặt ra xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố Cà Mau, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhận dân thành phố Cà Mau, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật.

[2] Đối với người bị hại là chị Tô Thị Th vắng mặt tại phiên tòa. Hội đồng xét xử xét thấy việc vắng mặt của bị hại không ảnh hưởng đến nội dung xét xử vụ án nên căn cứ quy định tại Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Th theo quy định.

[3] Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai nhận: Vì muốn có tiền tiêu xài cá nhân nên khi phát hiện xe đạp màu hồng đậu trong nhà hàng Nam Khang, không người trông coi, bị cáo đã lén lút vào lấy xe chạy đi nhưng sau đó bị bắt. Qua kết luận định giá, xe đạp này có giá trị còn lại 2.475.000 đồng.

[4] Xét lời khai nhận của bị cáo là có cơ sở để chấp nhận, bởi lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, vật chứng thu giữ được và nhiều tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập được trong quá trình điều tra. Bản thân bị cáo đã bị kết án 02 lần về tội trộm cắp tài sản, 01 lần chưa được xóa án tích và 01 lần cai nghiện bắt buộc nhưng bị cáo không biết cải sửa bản thân mà lại tiếp tục phạm tội. Vì vậy, hành vi phạm tội lần này của bị cáo đã cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm. Do đó, cáo trạng số: 226/CT-VKS ngày 19/11/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau truy tố bị cáo theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là có căn cứ.

[5] Hành vi của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác một cách bất hợp pháp, hành vi đó đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Hành vi của bị cáo không những đã xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây hoang mang, bất ổn trong quần chúng và làm mất trật tự trị an tại địa phương. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo biết rõ việc chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vì mục đích tư lợi bất chính, ý thức xem thường pháp luật cũng như muốn hưởng lợi trên sức lao động của người khác mà bị cáo đã thực hiện tội phạm hoàn thành với lỗi cố ý trực tiếp. Bản thân bị cáo có nhân thân xấu và đã có 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”, lẽ ra khi chấp hành án xong, bị cáo phải sửa chữa bản thân, lao động chân chính để trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội nhưng bị cáo không làm được mà lại tiếp tục phạm tội. Do đó, cần có mức án nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi bị cáo gây ra, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đảm bảo tính răn đe, trừng trị của pháp luật, đồng thời có thời gian giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người tốt, có ích và phòng ngừa chung trong xã hội.

[6] Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải; tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị không lớn nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Đại diện Viện kiểm sát không áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại tại điểm h khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự là chưa phù hợp. Bên cạnh đó, bị cáo có nhân thân xấu, có 01 tiền án chưa được xóa nên bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng theo điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại là chị Tô Thị Th đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên không đặt ra xem xét.

[8] Về xử lý vật chứng: Đối với xe đạp màu hồng của chị Tô Thị Th do bị cáo chiếm đoạt, ngày 25/7/2018 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cà Mau đã trả lại cho chị Th nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[9] Án phí hình sự sơ thẩm buộc bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Căn cứ Điều 136; Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Tuyên bố bị cáo: Nguyễn Duy T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Duy T 01 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt vào trại để chấp hành án.

- Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo phải chịu 200.000đ khi bản án có hiệu lực pháp luật.

- Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 228/2018/HS-ST ngày 30/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu: 228/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:30/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về