TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 224/2020/HS-ST NGÀY 12/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 12 tháng 5 năm 2020, tại Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 173/2020/TLST-HS ngày 01 tháng 4 năm 2020; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 221/2020/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 4 năm 2020 đối với:
Bị cáo Danh Anh N; Sinh ngày 01/01/1998, tại tỉnh Kiên Giang; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Nơi đăng ký thường trú: Ấp V, xã V, huyện V, tỉnh Kiên Giang; Chỗ ở hiện nay: Nhà trọ không số, tổ A, khu phố L, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Khơ me; Tôn giáo: Không; Tiền án, tiền sự: Không; Trình độ học vấn: Lớp 08/12; Nghề nghiệp: Công nhân; Họ tên cha: Danh Xà K, sinh năm 1962 (còn sống); Họ tên mẹ: Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1973 (còn sống); Gia đình có 03 chị em, bị cáo là con thứ hai; Bị cáo chung sống với chị Nguyễn Thị Kiều O (không đăng ký kết hôn), có con tên Nguyễn Hoàng A, sinh năm 2017.
Bị cáo bị bắt quả tang ngày 07/01/2020, chuyển tạm giam theo Lệnh số 99 ngày 15/01/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa. Hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. (Có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
1. Nội dung chính của vụ án:
Danh Anh N là người sử dụng trái phép chất ma túy. Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 07/01/2020, Nhân đi xe Grap đến khu vực An Phước, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai mua 01 gói ma túy (hàng đá) của một người thanh niên (chưa rõ nhân thân, lai lịch) với giá 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng). Sau khi mua được ma túy, Nhân lấy 01 phần ra sử dụng, phần còn lại chia ra thành 02 gói nhỏ để sử dụng dần. Đến khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày, tại nhà trọ không số tổ A, khu phố L, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, N đang cất giấu 02 gói ma túy trong bóp da màu đen để dưới bếp gas thì bị Công an phường Tam Phước kiểm tra phát hiện bắt quả tang, chuyển giao Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa xử lý.
Vật chứng thu giữ:
+ 02 gói nylon chứa tinh thể màu trắng có chữ ký của Danh Anh N và hình dấu tròn màu đỏ của Công an phường Tam Phước, thành phố Biên Hòa (bút lục số 02).
Tại Kết luận giám định số 35/PC09-GĐMT ngày 14/01/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai đã kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,2266 gam, loại Methamphetamine”.
2. Truy tố:
Tại Cáo trạng số: 188/CT-VKSBH-HS ngày 27/3/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Danh Anh N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị;
Áp dụng điểm c khoản 1, Điều 249 và điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); xử phạt bị cáo Danh Anh N từ 12 (mười hai) tháng đến 18 (mười tám) tháng tù.
Bị cáo N có mặt không có ý kiến tranh luận đối với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.
3. Lời nói sau cùng: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã mô tả, nhận thức được hành vi sai trái của mình và xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tố tụng:
Trong suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng hình sự; các văn bản tố tụng được tống đạt hợp lệ và đầy đủ. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
[2] Về hành vi bị truy tố, tội danh và các tình tiết liên quan đến việc quyết định hình phạt:
- Những chứng cứ xác định có tội: Tại phiên tòa cũng như quá trình điều tra bi cao đã k hai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp lời khai trong biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản hỏi cung bị can, kết luận giám định, biên bản lấy lời khai người làm chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:
Vào lúc 19 giờ 30 ngày 07/01/2020, tại nhà trọ không số tổ A, khu phố L, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, Danh Anh N đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy 0,2266 gam, loại Methamphetamine thì bị Công an phường Tam Phước, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai phát hiện, bắt quả tang.
- Về tội danh: Từ căn cứ trên, xác định bị cáo Danh Anh N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Như vậy, bản cáo trạng số 188/CT-VKSBH-HS ngày 27/3/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điều khoản tương ứng nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
- Xét tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội và lỗi: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, góp phần làm gia tăng các tệ nạn xã hội, ảnh hưởng đến đời sống cộng đồng. Bị cáo nhận thức rõ được tác hại của ma túy nhưng vẫn tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng là phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy, cần phải có mức hình phạt tù tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo để có tác dụng răn đe, đấu tranh phòng ngừa chung.
- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Bị cáo có nhân thân tốt (chưa có tiền án, tiền sự) được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
Từ những nhận định trên, xét về tính chất, mức độ nguy hiểm, vai trò, hậu quả của hành vi phạm tội gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo cũng như yêu cầu của việc đấu tranh phòng chống tội phạm, Hội đồng xét xử cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo N để đảm bảo sự nghiêm minh, khoan hồng của phát luật và giáo dục, răn đe phòng ngừa chung.
[3] Về vật chứng:
Vật chứng được kết luận là ma túy thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy.
[4] Về án phí:
Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Buộc bị cáo Danh Anh N phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm;
[6] Nhận định về phần trình bày của Kiểm sát viên, bị cáo tại phiên tòa:
- Đối với phần trình bày của Kiểm sát viên: Cáo trạng truy tố bị cáo về tội danh và đề nghị mức hình phạt là phù hợp quan điểm Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
- Đối với phần trình bày của bị cáo tại phiên tòa được Hội đồng xét xử xem xét khi nghị án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017):
- Tuyên bố bị cáo Danh Anh N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Xử phạt bị cáo Danh Anh N 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính ngày 07/01/2020.
2. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c, khoản 1, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;
Tịch thu tiêu hủy 01 (một) gói niêm phong số 35/PC09-GĐMT ngày 14/01/2020. Vật chứng này hiện đang lưu giữ tại Chi Cục Thi hành án Dân sự thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 31 tháng 03 năm 2020.
3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Buộc bị cáo Danh Anh N phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm;
4. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; Bị cáo Danh Anh N được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án 224/2020/HS-ST ngày 12/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 224/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/05/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về