Bản án 222/2019/HS-ST ngày 23/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN - TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 222/2019/HS-ST NGÀY 23/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 5 năm 2019, tại Hội trường, Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên tiến hành xét xử công khai, sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 198/2019/TLST-HS ngày 05 tháng 04 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 240/2019/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 5 năm 2019, đối với bị cáo:

Nguyễn Ngọc S, sinh ngày 05/8/1962.

Nơi ĐKHKTT: xóm C, xã H, thành phố TH, tỉnh Thái Nguyên.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Văn hóa: lớp 07/10; Nghề nghiệp: Làm ruộng. Con ông: Nguyễn Văn Đ; Con bà: Dương Thị T, đều đã chết; Gia đình có 05 anh, em, bị cáo là thứ tư; có vợ là Trần Thị M, sinh năm 1966; có 02 con, lớn sinh năm 1990, nhỏ sinh năm 1991. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên từ ngày 03/01/2019 đến nay (có mặt tại phiên tòa).

Người chứng kiến: Anh Nguyễn Quang T, sinh năm 1968 (vắng mặt tại phiên tòa). HKTT: Tổ D, phường TV, thành phố TH, tỉnh Thái Nguyên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 11 giờ 20 phút ngày 03/01/2019, tổ công tác của Công an phường Trưng Vương, thành phố Thái Nguyên đang làm nhiệm vụ tại khu vực cầu B thuộc tổ D, phường TV, thành phố TH thì phát hiện một người đàn ông có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác tiếp cận, yêu cầu kiểm tra người đàn ông tự khai tên là Nguyễn Ngọc S và khai nhận đang cất giấu ma túy, đồng thời S tự giác lấy từ trong lòng bàn tay trái ra 01 gói giấy màu trắng bên trong có 03 gói giấy bạc, trong mỗi gói đều chứa chất bột màu trắng (theo S khai là Heroine). Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Ngọc S và thu giữ vật chứng theo đúng quy định, ngoài ra không thu giữ gì khác.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên tiến hành mở niêm phong, cân xác định khối lượng số chất bột màu trắng thu giữ của Nguyễn Ngọc S có khối lượng 0,205gam.

Tại bản kết luận giám định số 248/KL-PC09 ngày 10/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Chất bột màu trắng trong mẫu giám định S gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,205gam.

Vật chứng của vụ án gồm: 01 bì niêm phong ký hiệu S (bên trong chứa ma túy). Hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên chờ xử lý.

Tại bản cáo trạng số 204/CT-VKSTPTN ngày 05/4/2019, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Ti cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay Nguyễn Ngọc S khai nhận: Khoảng 11 giờ ngày 03/01/2019, S đi bộ từ chỗ làm ở khu vực gần ngã ba B thuộc phường G, thành phố TH đến khu vực cầu G thuộc phường Đ, thành phố TH với mục đích tìm mua ma túy sử dụng. Tại đây, S gặp và mua 03 gói ma túy Heroine của một người đàn ông tên M (không rõ lai lịch, địa chỉ) với giá 150.000 đồng. Sau đó, S cầm gói ma túy trong lòng bàn tay trái và đi tìm nơi sử dụng. Đến khoảng 11 giờ 20 phút cùng ngày, khi S đang đi đến khu vực cầu B thuộc tổ D, phường TV, thành phố TH thì bị tổ công tác Công an phường Trưng Vương, thành phố Thái Nguyên phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng.

Kết thúc thẩm vấn, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên trình bày lời luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc S phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Ngọc S từ 18 tháng đến 24 tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 106 BLTTHS; Điều 47 BLHS: Tịch thu, tiêu hủy: 01 bì niêm phong ký hiệu S. Bị cáo phải nộp án phí theo quy định.

Bị cáo không tranh luận, thừa nhận việc truy tố và xét xử là không oan, đúng người, đúng tội. Trong lời nói sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ mức án.

Căn cứ vào những chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cở sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, của Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Ngọc S không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về chứng cứ xác định hành vi phạm tội: Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã mô tả, bị cáo xác định Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố là đúng người, đúng tội. Xét thấy lời nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa là tự nguyện, khách quan, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét, lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ, kết luận giám định. Như vậy, có đủ cơ sở để xác định: Hồi 11 giờ 20 phút ngày 03/01/2019, tại khu vực tổ D, phường TV, thành phố TH, tỉnh Thái Nguyên, Nguyễn Ngọc S đang có hành vi cất giữ tại bàn tay 0,205gam Heroine, mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị bắt giữ.

Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản nêu trên là có căn cứ.

[3]. Về tính chất, mức độ, hành vi: Xét tính chất mức độ của vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi đó đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất gây nghiện; gây mất trật tự trị an xã hội. Bị cáo nhận thức đầy đủ về tác hại của ma túy đối với sức khỏe, kinh tế xã hội, nhưng do bản thân nghiện ma túy nên đã bất chấp pháp luật. Hành vi phạm tội của bị cáo cần phải xét xử bằng pháp luật hình sự và có một mức án phù hợp, buộc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo, đồng thời răn đe phòng chống tội phạm chung.

Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Hội đồng xét xử nhận thấy: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 BLHS. Bị cáo được hưởng một tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS 2015.

Mức hình phạt mà vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo tại phiên tòa là phù hợp.

Về nguồn gốc số Nguyễn Ngọc S bị thu giữ bị cáo khai mua của một người đàn ông tên Minh (không rõ lai lịch địa chỉ) nên Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là người nghiện ma túy, không có tài sản riêng, nên miễn hình phạt này cho bị cáo.

[5]. Về vật chứng vụ án: 01 bì niêm phong ký hiệu S, xét thấy đây là vật chứng phạm tội cần tịch thu, tiêu hủy.

[6]. Bị cáo phải nộp án hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Ngọc S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

1. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS 2015 xử phạt:

- Nguyễn Ngọc S 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03/01/2019.

Căn cứ Điều 329 BLTTHS: Quyết định tạm giam bị cáo 45 (bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt tiền cho bị cáo.

3. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 BLHS; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự - Tịch thu, tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu S (bì niêm phong chứa chất ma túy).

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 247 ngày 08/4 /2019 giữa Công an thành phố Thái Nguyên với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên).

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015; Luật Phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách Nhà nước.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 222/2019/HS-ST ngày 23/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:222/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về