Bản án 22/2020/HSST ngày 27/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V, TỈNH N

BẢN ÁN 22/2020/HSST NGÀY 27/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27/05/2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện V, tỉnh N, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 16/2020/HSST ngày 06/04/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2020/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 05 năm 2020, đối với bị cáo:

* Trần Văn T (Tên gọi khác không), sinh năm 1990; tại xã T, huyện Q, tỉnh N; trú tại thôn A, xã T, huyện Q, tỉnh N; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 09/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn D và bà Đinh Thị H; vợ, con: Chưa có; tiền án; tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 05/03/2020, chuyển tạm giam ngày 07/03/2020 tới nay, tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình. Bị cáo có mặt tại phiên toà.

* Người làm chứng:

Anh Nguyễn Anh T, sinh năm 1989. vắng mặt tại phiên tòa.

Anh Đỗ Thanh T, sinh năm 1984. vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Trần Văn T là người đã sử dụng ma tuý. Khoảng 11 giờ ngày 05 tháng 3 năm 2020, T đem theo 01 bơm kim tiêm màu trắng đã qua sử dụng và đi bộ từ nhà ra đường 477 thuộc địa phận xã L, huyện Q, tỉnh N đón xe ô tô khách tuyến Q - Hà Nội (T không nhớ biển kiểm soát) đi tìm nơi bán ma túy để mua về sử dụng. Khi đi đến khu vực đầu cầu Đoan V, thuộc xã H, huyện T, tỉnh H, T xuống xe đi bộ dọc theo đường quốc lộ 1A hướng về phía thành phố Phủ L, tỉnh H. Đi được khoảng 50m, T gặp một người đàn ông đứng ở ven đường bên phải theo hướng đi thành phố Phủ L, T đi đến và hỏi: “Anh ơi, ở đây có chỗ nào bán đồ không? ” - ý hỏi có ai bán ma túy không; người đàn ông trả lời “Có, lấy loại nào?”, T nói tiếp “Cho em hai trăm trắng với ba trăm đá” - ý T hỏi mua 200.000 đồng loại Heroine và 300.000 đồng loại ma túy đá. Sau đó, T lấy 500.000 đồng đưa cho người đàn ông, người này cầm tiền và nói với T: “Đợi ở đây”. Sau đó, người đàn ông đi bộ vào một ngõ bên phải đường gần đó. Khoảng 15 phút sau, người đàn ông quay lại đưa cho T 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, phía trong lớp nilon bọc ngoài bao thuốc lá có 01 gói nhỏ gói ngoài bằng giấy bạc màu vàng và 01 túi nilon màu trắng, có viền chỉ màu xanh, đựng các tinh thể màu trắng. Tuy không mở ra kiếm tra nhưng T xác định đó là gói Heroine và túi ma túy đá nên T cất giấu vào túi quan bên trái, phía trước đang mặc rồi đi bộ về phía đầu cầu Đoan V đón xe ô tô khách để về nhà. Khi đến khu vực đường 477 thuộc xã G, huyện V, tỉnh N, T xuống xe đi tìm mua nước cất để sử dụng ma tuý. Khoảng 12 giờ 30 phút cùng ngày, khi T đi đến thôn Tân Long M, xã G thì gặp tổ công tác của Công an huyện V phối hợp với Công an xã G làm nhiệm vụ. T đã tự nguyện lấy từ túi quần bên trái, phía trước ra 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, phía trong lớp nilon bọc ngoài bao thuốc có 01 gói nhỏ gói ngoài bằng giấy bạc màu vàng, bên trong có chất bột dạng cục màu trắng; 01 túi nilon màu trắng, kích thước (2x2,5)cm, trên M1ệng túi có viền chỉ màu xanh, bên trong đựng các tinh thể màu trắng giao nộp cho Tổ công tác. T khai nhận đó là 01 gói nhỏ heroine và 01 túi nhỏ ma túy đá của T cất giấu để sử dụng. Ngoài ra, Tổ công tác còn thu giữ của T 01 bơm kim tiêm màu trắng, đã qua sử dụng cùng số tiền 50.000 đồng.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V đã tiến hành niêm phong các chất bột dạng cục màu trắng ký hiệu M1 và chất dạng tinh thể màu trắng ký hiệu M2 thu giữ của Trần Văn T gửi đi để xác định khối lượng, giám định chất ma túy.

Ngày 07 tháng 3 năm 2020, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N tiến hành cân xác định khối lượng các chất ma tuý thu giữ của Trần Văn T, trong đó chất bột dạng cục màu trắng ký hiệu M1 = 0,0695 gam; chất dạng tinh thể màu trắng ký hiệu M2 = 0,3371 gam

Tại bản Kết luận giám định số 76/KLGĐ-PC09-MT ngày 07 tháng 3 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N kết luận:

- Mẫu chất bột dạng cục màu trắng gửi giám định ký hiệu M1 có khối lượng 0,0695 (Không phẩy không nghìn sáu trăm chín mươi lăm) gam, là ma túy, loại Heroine.

Heroine là chất ma túy thuộc bảng Danh mục I, số thứ tự 9; Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

- Mẫu chất dạng tinh thể màu trắng gửi giám định ký hiệu M2 có khối lượng 0,3371 (Không phẩy ba nghìn ba trăm bẩy mươi mốt) gam, là ma túy, loại MethamphetaM1ne.

MethamphetaM1ne là chất ma túy thuộc bảng Danh mục II, số thứ tự 323; Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

- Hoàn lại đối tượng giám định gồm:

+ Chất bột màu trắng còn lại trong mẫu gửi giám định ký hiệu M1 có khối lượng 0,0270 (Không phẩy không nghìn hai trăm bẩy mươi) gam là ma túy, loại Heroine.

+ Chất tinh thể màu trắng còn lại trong mẫu gửi giám định ký hiệu M2 có khối lượng 0,2115 (Không phẩy hai nghìn một trăm mười lăm) gam là ma túy, loại Methamphatamine.

+ Toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong.

(Tất cả được niêm phong trong một phong bì ghi số 76/KLGĐ-PC09-MT theo đúng quy định pháp luật).

Tại bản Cáo trạng số 22/CT-VKS-GV ngày 03/04/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện V đã truy tố Trần Văn T ra trước Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh N để xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, xác nhận nội dung bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh N thực hành quyền công tố tại phiên tòa, phát biểu luận tội đã giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như nội dung bản Cáo trạng. Sau khi phân tích, đánh giá tính chất nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, cùng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Văn T từ 18 tháng đến 24 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 05/03/2020.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự. Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong ghi số 76/KLGĐ-PC09-MT, bên trong đựng: Chất bột màu trắng còn lại trong mẫu gửi giám định ký hiệu M1 có khối lượng 0,0270 gam là ma túy, loại Heroine; chất tinh thể màu trắng còn lại trong mẫu gửi giám định ký hiệu M2 có khối lượng 0,2115 gam là ma túy, loại Methamphetamine; toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong; 01 phong bì niêm phong theo quy định pháp luật đựng vật chứng còn lại sau khi cân xác định khối lượng, gồm: 01 vỏ túi nilon màu trắng, kích thước (2x2,5) cm, Miệng túi có viền chỉ màu xanh; 01 mảnh giấy bạc màu vàng và 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu; 01 phong bì niêm phong theo quy định pháp luật đựng 01 bơm kim tiêm màu trắng, đã qua sử dụng; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, là vật chứng thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành và vật chứng không còn giá trị sử dụng.

Trả lại bị cáo Trần Văn T số tiền 50.000 đồng, là số tiền không liên quan đến việc phạm tội, nhưng vẫn tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng Hình sự; quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa bị cáo Trần Văn T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện V đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với vật chứng của vụ án đã được thu hồi, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 12 giờ 30 phút, ngày 05 tháng 3 năm 2020, tại khu vực đường 477, thuộc địa phận thôn Tân Long M, xã G, huyện V, tỉnh N, bị cáo Trần Văn T đã có hành vi cất giấu trái phép 0,0695 gam Heroine và 0,3371 gam Methamphetamine, nhằm mục đích sử dụng cho bản thân.

Bộ luật Hình sự quy định:

Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma tuý thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a, ………. ;

b, ………. ;

c, Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

[3]. Hành vi của bị cáo Trần Văn T đã nêu trên là phạm tội "Tàng trữ hái phép chất ma túy" được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh N truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] , Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với chất ma tuý, tác động rất xấu đến trật tự trị an và an toàn xã hội, là một trong các nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác, gây ảnh hưởng đến sức khỏe, trí tuệ và sự phát triển bình thường của nòi giống, làm khánh kiệt kinh tế của người sử dụng chất ma túy, gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Vì vậy, hành vi phạm tội của bị cáo cần phải được xử phạt nghiêm minh để giáo dục cải tạo bị cáo và là bài học răn đe phòng ngừa chung cho xã hội. Mức hình phạt áp dụng được căn cứ vào tính chất tội phạm, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo trong vụ án để quyết định cho phù hợp.

[5]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Trần Văn T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo được xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đưa ra tại phiên tòa, đó là: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo; khai nhận hành vi phạm tội của mình trước khi bị phát hiện. Đây là các tình tiết được quy định tại điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, cần được áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[7]. Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cũng như nhân thân của bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy, cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, tương xứng với hành vi mà bị cáo đã gây ra, mới có tác dụng giáo dục, cải tạo và nâng cao công tác phòng ngừa chung, để thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật.

[8] . Về hình phạt bổ sung: Xét bản thân bị cáo Trần văn T là người sử dụng ma túy, tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích sử dụng, không mang tính vụ lợi, không có tài sản gì có giá trị, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[9] , Biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Số ma túy thu giữ của Trần Văn T là 0,0695 gam Heroine và 0,3371 gam Methamphetamine. Sau khi lấy mẫu giám định, khối lượng Heroine còn lại trong mẫu gửi giám định ký hiệu M1 có khối lượng 0,0270 gam; Methamphetamine còn lại trong mẫu gửi giám định ký hiệu M2 có khối lượng 0,2115 gam, toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong; 01 phong bì niêm phong theo quy định pháp luật đựng vật chứng còn lại sau khi cân xác định khối lượng, gồm: 01 vỏ túi nilon màu trắng, kích thước (2x2,5) cm, miệng túi có viền chỉ màu xanh; 01 mảnh giấy bạc màu vàng và 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu; 01 phong bì niêm phong theo quy định pháp luật đựng 01 bơm kim tiêm màu trắng, đã qua sử dụng; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, là vật chứng thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành và vật chứng không còn giá trị sử dụng. Do vậy, cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với số tiền 50.000 đồng thu giữ của Trần Văn T, là tài sản hợp pháp của T, không sử dụng vào việc phạm tội, cần trả lại cho T nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

[10]. Đối với người đàn ông bán trái phép Heroine và Methamphetamine cho Trần Văn T ngày 05 tháng 3 năm 2020 tại khu vực đầu cầu Đoan V, thuộc xã T, huyện T, tỉnh Hà Nam (theo lời khai của Tiến). Tuy nhiên, T không biết tên, tuổi, địa chỉ của người này. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V đã tiến hành điều tra, xác minh nhưng không xác định được. Do đó, không đủ căn cứ để xử lý.

[11] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thấm theo quy định của pháp luật.

[12] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo luật định.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Văn T, 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù, tính từ ngày bị bắt tạm giữ 05/03/2020.

2. Biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:

Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong ghi số 76/KLGĐ-PC09-MT, bên trong đựng: Chất bột màu trắng còn lại trong mẫu gửi giám định ký hiệu M1 có khối lượng 0,0270 gam là ma túy, loại Heroine; chất tinh thể màu trắng còn lại trong mẫu gửi giám định ký hiệu M2 có khối lượng 0,2115 gam là ma túy, loại Methamphetamine; toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong; 01 phong bì niêm phong theo quy định pháp luật đựng vật chứng còn lại sau khi cân xác định khối lượng, gồm: 01 vỏ túi nilon màu trắng, kích thước (2x2,5) cm, miệng túi có viền chỉ màu xanh; 01 mảnh giấy bạc màu vàng và 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu; 01 phong bì niêm phong theo quy định pháp luật đựng 01 bơm kim tiêm màu trắng, đã qua sử dụng; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, là vật chứng thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành và vật chứng không còn giá trị sử dụng.

Trả lại bị cáo Trần Văn T số tiền 50.000 đồng, là số tiền không liên quan đến việc phạm tội, nhưng vẫn tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án. (Số tiền trả lại cho bị cáo gửi tại tài sản tạm giữ của Chi cục Thi hành án dân sự huyện V. Đặc điểm các vật chứng tịch thu tiêu hủy theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 03/04/2020, giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V và Chi cục Thi hành án dân sự huyện V).

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 luật thi hành án dân sự”.

3. Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của ủy ban Thường vụ Quốc Hội. Buộc bị cáo Trần Văn T phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2020/HSST ngày 27/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:22/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vụ Bản - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về