Bản án 22/2020/HNGĐ-ST ngày 20/07/2020 về tranh chấp ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUẢNG NGÃI, TỈNH QUẢNG NGÃI

BẢN ÁN 22/2020/HNGĐ-ST NGÀY 20/07/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 20 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Quảng Ngãi xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 454/2019/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 12 năm 2019 về tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 63/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 6 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Phạm Vĩnh T, sinh năm 1976, địa chỉ: Tổ 05, phường NC, thành phố QN, tỉnh Quảng Ngãi, có mặt.

2. Bị đơn: Bà Đỗ Thị Linh G, sinh năm 1981, địa chỉ: Số 510 PĐP, tổ 01, phường NL, thành phố QN, tỉnh Quảng Ngãi, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 06-9-2019, các bản tự khai ngày 18-02-2020, ngày 18-5-2020, nguyên đơn ông Phạm Vĩnh T trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Ông và bà G tự nguyện tìm hiểu đăng ký kết hôn tại UBND phường CL, thành phố QN, tỉnh Quảng Ngãi vào ngày 26-12-2006. Sau khi đăng ký kết hôn cho đến tháng 7-2010 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do quan điểm sống giữa vợ chồng và các vấn đề khác không đồng thuận dẫn đến tình cảm vợ chồng không còn, vợ chồng đã không sống chung từ tháng 07-2010, mục đích của hôn nhân không đạt được. Nay ông không còn tình cảm với bà G nữa, yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà Đỗ Thị Linh G.

- Về con chung: Ông và bà Đỗ Thị Linh G có 01 con chung là Phạm Vĩnh T, sinh ngày 12-6-2007. Khi ly hôn, ông yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu T. Không yêu cầu bà G cấp dưỡng nuôi con. Tại bản tự khai ngày 18-5-2020, ông thay đổi yêu cầu là hiện nay cháu T đang ở với bà G đã ổn định sinh hoạt và học tập nên yêu cầu giao cháu Tiến cho bà G nuôi dưỡng, ông cấp dưỡng nuôi cháu T mỗi tháng 3.000.000 đồng, thời gian cấp dưỡng tính từ ngày Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi giải quyết xong vụ án cho đến khi cháu T đủ 18 tuổi.

- Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết.

- Về nợ chung: Không có.

Bị đơn bà Đỗ Thị Linh G không trình bày ý kiến.

Tại phiên tòa sơ thẩm đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi phát biểu ý kiến: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Việc tuân theo pháp luật trong thời gian chuẩn bị xét xử: Về quan hệ tranh chấp đúng quy định tại Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự; về thẩm quyền thụ lý vụ án đúng thẩm quyền quy định tại Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự; việc tống đạt các văn bản tố tụng đúng thẩm quyền quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán chấp hành đúng quy định tại Điều 48 Bộ luật Tố tụng dân sự; việc xác định tư cách tham gia tố tụng đúng quy định tại Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự; về thời gian giải quyết vụ án đúng quy định tại khoản 1 Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự; việc chuyển hồ sơ cho viện kiểm sát nghiên cứu đúng quy định tại khoản 2 Điều 220 Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng quy định Bộ luật Tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn chấp hành đúng quy định tại Điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn không chấp hành đúng quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Vĩnh T. Ông Phạm Vĩnh T ly hôn bà Đỗ Thị Linh G.

Về con chung: Ông Phạm Vĩnh T và bà Đỗ Thị Linh G có 01 con chung là Phạm Vĩnh T, sinh ngày 12-6-2007. Khi ly hôn giao cháu T cho bà G nuôi dưỡng, ông T cấp dưỡng nuôi cháu T mỗi tháng 3.000.000 đồng. Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết. Về nợ chung: Không có. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm:

Ông T phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn bà Đỗ Thị Linh G đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai vẫn vắng mặt. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử thống nhất vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Ông Phạm Vĩnh T và bà Đỗ Thị Linh G tự nguyện tìm hiểu đăng ký kết hôn tại UBND phường CL, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi vào ngày 26-12-2006 là hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình sống chung vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do quan điểm sống giữa vợ chồng và các vấn đề khác không đồng thuận dẫn đến tình cảm vợ chồng không còn, vợ chồng đã không sống chung từ tháng 07-2010 đến nay không ai quan tâm gì đến cuộc sống của nhau. Từ đó ông T yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với bà Đỗ Thị Linh G. Tòa án đã nhiều lần triệu tập bà G đến làm việc về yêu cầu ly hôn và nuôi con chung của ông T, nhưng bà G vẫn không đến để làm việc, bà G không có thiện chí hòa giải để đoàn tụ gia đình. Xét thấy lý do xin ly hôn của ông T chính đáng, tình trạng hôn nhân giữa ông T và bà G đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông Pham Vĩnh T, ông Phạm Vĩnh T được ly hôn với bà Đỗ Thị Linh G.

[3] Về con chung: Tại đơn khởi kiện ông T trình bày: Ông Phạm Vĩnh T và bà Đỗ Thị Linh G có 01 con chung là Phạm Vĩnh T, sinh ngày 12-6-2007. Khi ly hôn, ông T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu T. Không yêu cầu bà G cấp dưỡng nuôi con. Tại bản tự khai ngày 18/5/2020, ông T thay đổi yêu cầu là hiện nay cháu T đang ở với bà G đã ổn định sinh hoạt và học tập nên yêu cầu giao cháu T cho bà G nuôi dưỡng, ông T cấp dưỡng nuôi cháu T mỗi tháng 3.000.000 đồng, thời gian cấp dưỡng tính từ ngày Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi giải quyết xong vụ án cho đến khi cháu T đủ 18 tuổi. Việc thay đổi yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là phù hợp với quy định tại Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Xét thấy hiện nay cháu T đang ở với bà G sức khỏe vẫn tốt. Bà G có nghề nghiệp thu nhập ổn định, đảm bảo điều kiện để nuôi cháu T. Ngoài ra cháu T có nguyện vọng ở với bà G. Do đó, để đảm bảo quyền lợi của con, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của ông T, giao cháu T cho bà G chăm sóc, nuôi dưỡng. Ông T tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 3.000.000 đồng, thời gian cấp dưỡng tính từ tháng 7-2020 cho đến khi cháu T đủ 18 tuổi là phù hợp với Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[4] Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết. [5] Về nợ chung: Ông T trình bày không có.

[6] Về án phí vụ án hôn nhân và gia đình: Quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự, ông T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình 300.000 đồng và phải chịu án phí nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con 300.000 đồng, tổng cộng 600.000 đồng, được trừ 300.000 đồng đã tạm ứng nên còn phải nộp 300.000 đồng.

[7] Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[8] Với những nhận định trên phù hợp với ý kiến đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28, Điều 35, khoản 1, khoản 2, khoản 3 Điều 144, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 235, Điều 244, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 5, khoản 6 Điều 27 Nghị quyết  số: 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phạm Vĩnh T.

1/ Về quan hệ hôn nhân: Ông Phạm Vĩnh T ly hôn với bà Đỗ Thị Linh G.

2/ Về con chung: Ông Phạm Vĩnh T và bà Đỗ Thị Linh G có 01 con chung là Phạm Vĩnh T, sinh ngày 12-6-2007. Giao cháu Phạm Vĩnh T cho bà Đỗ Thị Linh G trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Ông Phạm Vĩnh T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng), thời gian cấp dưỡng tính từ tháng 7/2020 cho đến khi cháu Phạm Vĩnh T đủ 18 tuổi Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

3/ Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết.

4/ Về nợ chung: Ông Phạm Vĩnh T trình bày không có.

5/ Về án phí vụ án hôn nhân và gia đình: Ông Phạm Vĩnh T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình 300.000 đồng và phải chịu án phí nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con 300.000 đồng, tổng cộng 600.000 đồng, được trừ 300.000 đồng đã tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp, theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: AA/2018/0003062 ngày 04 tháng 12 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Quảng Ngãi, ông Phạm Vĩnh T còn phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

6/ Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp Bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 của Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6,7,7a và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 luật Thi hành án Dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

270
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2020/HNGĐ-ST ngày 20/07/2020 về tranh chấp ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:22/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Quảng Ngãi - Quảng Ngãi
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về