Bản án 85/2020/HNGĐ-ST ngày 25/03/2020 về tranh chấp ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 85/2020/HNGĐ-ST NGÀY 25/03/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 25 tháng 3 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Châu Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 427/2019/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 12 năm 2019 về tranh chấp ly hôn, tranh chấp nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 3 tháng 3 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trương Thị Cẩm T, sinh năm: 1992 (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

Nơi cư trú: Tổ 16, ấp H, TT A, huyện C, tỉnh An Giang.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn B, sinh năm: 1992 (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

Nơi cư trú: Tổ 16, ấp H, TT A, huyện C, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ly hôn, bản tự khai cùng ngày 14/11/2019, nguyên đơn chị Trương Thị Cẩm T trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Văn B kết hôn với nhau vào năm 2011, hôn nhân do quen biết, có tổ chức đám cưới, có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn An Châu, Châu Thành, An Giang. Thời gian đầu sau khi kết hôn chị và anh B chung sống với cha mẹ chồng, vợ chồng sống hạnh phúc được hơn 3 năm thì phát sinh mâu thuẫn, do bất đồng trong cuộc sống, bất đồng trong việc làm ăn, tiền bạc, nợ nần, bất đồng trong giải quyết nội bộ gia đình, áp lực cuộc sống khó khăn ngày càng đè nặng, kéo dài thời gian, chị không chịu đựng được nữa. Từ đó dẫn đến bất đồng trong tình cảm vợ chồng, không tôn trọng nhau, không còn tin tưởng nhau, vợ chồng luôn bất hòa, gia đình không còn êm ấm hạnh phúc. Từ tháng 8 năm 2019 vợ chồng không còn chung sống với nhau và ly thân nhau đến nay. Nhận thấy tình cảm vợ chồng bị rạn nứt do mâu thuẫn ngày càng nhiều, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, chị yêu cầu ly hôn với anh Nguyễn Văn B.

- Về con chung: có 01(một) con chung tên: Nguyễn Trương Gia M, sinh ngày 22/9/2011. Hiện cháu Gia M đang sống với chị T. Sau ly hôn chị yêu cầu nuôi cháu M, chị không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Văn B: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt và niêm yết hợp lệ thông báo thụ lý, các thông báo về phiên họp kiểm tra về việc giao nộp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh Nguyễn Văn B vẫn vắng mặt các buổi phiên họp giao nộp chứng cứ và hòa giải không có lý do. Tòa án cũng tiến hành lấy lời khai của anh Nguyễn Văn B, tại biên bản lấy lời khai ngày 2/3/2020 anh B trình bày: Về hôn nhân: Anh cũng đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị Tiên. Về con chung: anh đồng ý giao con cho chị T nuôi dưỡng, anh không cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản và nợ chung: không có

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành phát biểu quan điểm cho rằng. Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án đã thực hiện đầy đủ trình tự thủ tục tố tụng được pháp luật quy định tại Bộ Luật Tố tụng Dân sự năm 2015 và các văn bản pháp luật có liên quan.Về nội dung vụ án: Căn cứ vào các chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án, đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến đề nghị. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị T, cho chị T ly hôn với anh B. Về con chung: Đề nghị giao cháu M cho chị T nuôi dưỡng. Về tài sản và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng. Tòa án nhân dân huyện Châu Thành nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Anh Nguyễn Văn B là bị đơn trong vụ án đã được Tòa án nhân dân huyện Châu Thành tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tuy nhiên anh B có đơn xin vắng mặt các phiên hòa giải và xét xử ngày 2/3/2020 và ngày 20/2/2020 và chị Trương Thị Cẩm T có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ vào Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt chị Trương Thị Cẩm T và anh Nguyễn Văn B theo quy định pháp luật.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trương Thị Cẩm T và anh Nguyễn Văn B kết hôn vào năm 2011, hôn nhân do quen biết, có tổ chức cưới và có đăng ký kết hôn. Do đó, hôn nhân của anh chị là hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ .

Theo đơn chị T trình bày thời gian đầu sau khi kết hôn chị và anh B chung sống với cha mẹ chồng, vợ chồng sống hạnh phúc được hơn 3 năm thì phát sinh mâu thuẫn, do bất đồng trong cuộc sống, bất đồng trong việc làm ăn, tiền bạc, nợ nần, bất đồng trong giải quyết nội bộ gia đình, áp lực cuộc sống khó khăn ngày càng đè nặng, kéo dài thời gian, chị không chịu đựng được nữa. Từ đó dẫn đến bất đồng trong tình cảm vợ chồng, không tôn trọng nhau, không còn tin tưởng nhau nữa, vợ chồng luôn bất hòa, gia đình không còn êm ấm hạnh phúc. Từ tháng 8 năm 2019 vợ chồng không còn chung sống với nhau và ly thân nhau đến nay. Tại biên bản lấy lời khai của anh B ngày 2/3/2020 anh cũng không có ý kiến gì về nguyên nhân mâu thuẫn ly hôn, trước yêu cầu xin ly hôn của chị T anh cũng đồng ý ly hôn. Xét thấy với thời gian ngắn chung sống hai bên đã phát sinh mâu thuẫn nhưng cả hai không tìm ra biện pháp hàn gắn tình cảm vợ chồng dẫn đến vợ chồng ngày càng thêm mâu thuẫn. Trong thời gian ly thân hai bên không tạo điều kiện để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Hiện tại chị T xác định không còn tình cảm với anh B. Tại đơn xin xét xử vắng mặt chị cũng giữ nguyên phần trình bày trong đơn là chị vẫn cương quyết xin ly hôn. Do đó, hôn nhân của chị T và anh B không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nghĩ nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị T là hoàn toàn phù hợp với quy định tại điều 56 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014.

[2.2] Về con chung: có 01(một) con chung tên: Nguyễn Trương Gia M, sinh ngày 22/9/2011. Hiện cháu Gia M đang sống với chị T. Sau ly hôn chị yêu cầu nuôi cháu M , chị không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con. Tại biên bản lấy lời khai cháu M ngày 9/1/2020 cháu M cũng có nguyện vọng sống với chị T. Xét thấy cháu M từ nhỏ đến nay cháu sống với chị T, được chị chăm sóc cuộc sống hiện tại tương đối ổn định. Do đó để không làm ảnh hưởng đến cuộc sống của cháu, nghĩ nên để chị T nuôi dưỡng cháu là phù hợp. Chị T không yêu cầu anh B cấp dưỡng nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét. Chị T phải tạo điều kiện thuận lợi cho anh B được quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung không ai cản trở khi anh thực hiện quyền này.

[2.3] Về tài sản và nợ chung: Chị Trương Thị Cẩm T trình bày không có, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[2.4] Về án phí: Do yêu cầu của Chị Trương Thị Cẩm T được chấp nhận nên phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng các điều 9, 53, 56, 58 Luật Hôn nhân gia đình 2014, các điều 28, 35, 147, 227, 228, 266, 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Trương Thị Cẩm T. Cho ly hôn giữa chị Trương Thị cẩm T và anh Nguyễn Văn B

Giấy chứng nhận kết hôn số: 04 /KH, ngày 16/01/2012 của Ủy ban nhân dân thị trấn An Châu, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý.

2. Về nuôi con chung: về nuôi con chung: Chị Trương Thị cẩm T được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Nguyễn Trương Gia M , sinh ngày 22/9/2011. Anh Nguyễn Văn B không phải cấp dưỡng nuôi con. Chị T phải tạo điều kiện thuận lợi cho anh B được quyền tới lui chăm sóc cháu M , không ai được cản trở khi anh thực hiện quyền này.

3. Về tài sản và nợ chung: Chị Trương Thị cẩm T trình bày không có, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Trương Thị Cẩm T phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0006580 ngày 3/12/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Châu Thành.

5. Về kháng cáo: về Chị Trương Thị cẩm T và anh Nguyễn Văn B được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt hoặc niêm yết bản án.

6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

350
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 85/2020/HNGĐ-ST ngày 25/03/2020 về tranh chấp ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:85/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:25/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về