Bản án 22/2019/HS-ST ngày 02/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 6, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 22/2019/HS-ST NGÀY 02/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 02 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 20/2019/TLST-HS ngày 19 tháng 02 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/2019/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Hoàng T; Sinh ngày: 27/3/1983; Tại: Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: 331/63 đường TTĐ, phường PT, quận TP, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Làm công; Trình độ văn hóa: 2/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn B (chết) và bà: Nguyễn Thị H; Có vợ: Không và con: Không; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 20/5/2015, bị Tòa án nhân dân quận TP, Thành phố Hồ Chí Minh quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở Cai nghiện bắt buộc 24 tháng về hành vi sử dụng chất ma túy (Quyết định số: 88/QĐ-TA). Chấp hành xong ngày 22/4/2017 (Giấy chứng nhận về việc chấp hành xong Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở Cai nghiện bắt buộc số: 157/CN-TR2 ngày 21/3/2017 của Trường Giáo dục Đào tạo và Giải quyết việc làm Số 2); Bị bắt, tạm giam ngày 15/11/2018.

Nhân thân:

- Ngày 31/10/2007, bị Tòa án nhân dân quận TP, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội «Cướp giật tài sản» (Bản án số: 261/2007/HSST). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 17/01/2009 (Giấy chứng nhận đặc xá số: 303/GCNĐX của Trại giam Châu Bình).

- Ngày 11/5/2012, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh quyết định đưa vào Cơ sở chữa bệnh 24 tháng về hành vi sử dụng chất ma túy (Quyết định số: 4133/QĐ-UBND). Chấp hành xong ngày 05/5/2014 (Giấy chứng nhận hoàn thành thời gian cai nghiện tập trung ngày 31/3/2014 của Trường Giáo dục Đào tạo và Giải quyết việc làm Số 2). (có mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 20 giờ 30 phút ngày 15/11/2018, Công an Phường A, Quận F phát hiện Nguyễn Hoàng T đang đi bộ đến trước nhà số 1462 đường VVK, Phường A, Quận F có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra và đã thu giữ trong túi quần phía trước bên phải của T 01 gói giấy bạc bên trong chứa tinh thể không màu và 01 gói giấy bạc bên trong chứa chất bột màu trắng (T khai đó là ma túy đá và Heroine), nên đã giao T cùng vật chứng nêu trên cho Cơ quan điều tra Công an Quận 6 giải quyết.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Hoàng T khai: Khoảng 20 giờ ngày 15/11/2018, T đón xe ôm đến khu vực hẻm BM, Quận H mua từ một người đàn ông (không rõ lai lịch) 02 gói ma túy (01 gói Heroine, 01 gói ma túy đá) giá 500.000 đồng. Sau khi mua xong, T lấy mỗi gói một ít ra sử dụng, số còn lại T cất trong túi quần phía trước bên phải, rồi đi bộ về đến trước nhà số 1462 đường VVK thì bị phát hiện bắt giữ như nêu trên.

Tại Kết luận giám định số: 10/KLGĐ-H ngày 20 tháng 11 năm 2018, Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã kết luận: 01 gói niêm phong bên ngoài có dấu vân tay màu đỏ, có các chữ ký ghi tên Lê Văn Đông (Điều tra viên), Huỳnh Văn Sang (người chứng kiến), Nguyễn Hoàng T và hình dấu Công an Phường A, Quận F gửi đến giám định, bên trong có:

- Bột màu trắng trong 01 gói giấy bạc là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,3751g (không phẩy ba bảy năm một gam), loại Heroine.

- Tinh thể không màu trong 01 gói giấy bạc là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,0468g (không phẩy không bốn sáu tám gam), loại Methamphetamine.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho Nguyễn Hoàng T, Cơ quan điều tra không xác định được lai lịch.

Tại Cáo trạng số: 24/CT-VKS.Q6 ngày 19 tháng 02 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Hoàng T về tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy» theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Hoàng T khai nhận chính bị cáo đã thực hiện hành vi mua 02 bịch ma túy (01 bịch ma túy đá, 01 bịch Heroine) giá 500.000 đồng để sử dụng và bị Công an phát hiện bắt quả tang như nội dung bản cáo trạng nêu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Hoàng T như bản cáo trạng và sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo cùng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Phạt bị cáo Nguyễn Hoàng T từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm 06 tháng tù về tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy» theo điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Không phạt tiền đối với bị cáo, do bị cáo không có khả năng thi hành.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy 01 gói có chứa ma túy đã được niêm phong, bên ngoài có ghi vụ số: 10/19 Q6, có các chữ ký của Giám định viên Phan Hoàng Trạc, Điều tra viên Nguyễn Tấn Phương.

Lời nói sau cùng, bị cáo Nguyễn Hoàng T nhận thức được hành vi của bị cáo là sai, là vi phạm pháp luật và xin Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án nhẹ nhất để bị cáo sớm trở về với gia đình, có cơ hội làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 6, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối chiếu lời khai của bị cáo Nguyễn Hoàng T tại phiên tòa là phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản thu giữ vật chứng, Kết luận giám định, lời khai của người làm chứng tại Cơ quan điều tra cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Hoàng T đã cất giữ 0,4219 gam ma túy ở thể rắn (trong đó, có 0,3751 gam loại Heroine và 0,0468 gam loại Methamphetamine) để sử dụng, là phạm tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy». Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, đúng như Viện kiểm sát đã truy tố.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Hoàng T không những đã xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước về việc cất giữ chất ma túy mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an chung.

Bị cáo Nguyễn Hoàng T là người đã trưởng thành, có đủ khả năng nhận thức được hành vi cũng như hậu quả do hành vi của mình gây ra, nhưng để thỏa mãn lối sống không lành mạnh và nhất là xem thường pháp luật, nên bị cáo đã cố tình thực hiện hành vi phạm tội nêu trên, do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.

[3] Bản thân bị cáo Nguyễn Hoàng T ngày 20/5/2015, bị Tòa án nhân dân quận TP quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở Cai nghiện bắt buộc 24 tháng về hành vi sử dụng chất ma túy. Ngoài ra, bị cáo còn có nhân thân xấu, đó là ngày 31/10/2007, bị Tòa án nhân dân quận TP xử phạt 03 năm tù về tội «Cướp giật tài sản»; ngày 11/5/2012, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận H quyết định đưa vào Cơ sở chữa bệnh 24 tháng về hành vi sử dụng chất ma túy. Mặc dù lần phạm tội này bị cáo đã được đương nhiên xóa án tích thì coi như chưa bị kết án, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, nhưng điều này cũng cho thấy tuy đã được cải tạo, giáo dục, bị cáo vẫn không chịu rèn luyện, tu dưỡng để trở thành người công dân có ích cho xã hội mà ngược lại vẫn tiếp tục sống buông thả để ngày càng lún sâu vào con đường phạm tội.

[4] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Hoàng T là nghiêm trọng, bởi các chất ma túy ở thể rắn nói chung và Heroine, Methamphetamine nói riêng là chất gây nghiện độc hại, việc sử dụng ma túy đã gây tác hại rất lớn và ảnh hưởng rất xấu đến sức khỏe, làm mất khả năng lao động, học tập của chính người sử dụng và đây cũng chính là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm khác, do đó Hội đồng xét xử thấy cần phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và để phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa đều có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bản thân bị cáo đang bệnh nặng (nhiễm HIV/ lao phổi - giai đoạn 3), nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì bị cáo Nguyễn Hoàng T còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo phạm tội không vụ lợi, là lao động tự do, không có thu nhập, điều kiện kinh tế còn khó khăn, vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Việc xử lý vật chứng: 01 gói có chứa ma túy đã được niêm phong, bên ngoài có ghi vụ số: 10/19 Q6, có các chữ ký của Giám định viên Phan Hoàng Trạc, Điều tra viên Nguyễn Tấn Phương, là vật cấm lưu hành, nên Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

(theo Phiếu nhập kho vật chứng số: 207/PNK ngày 25 tháng 12 năm 2018 của Công an Quận 6 - BL34)

[7] Đối với người đàn ông mà bị cáo Nguyễn Hoàng T khai bán ma túy cho bị cáo, Cơ quan điều tra không xác định được lai lịch, do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[8] Bị cáo Nguyễn Hoàng T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hoàng T phạm tội: «Tàng trữ trái phép chất ma túy».

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng T 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/11/2018.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) gói có chứa ma túy đã được niêm phong, bên ngoài có ghi vụ số: 10/19 Q6, có các chữ ký của Giám định viên Phan Hoàng Trạc, Điều tra viên Nguyễn Tấn Phương.

- Căn cứ Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo Nguyễn Hoàng T phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

- Bị cáo Nguyễn Hoàng T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2019/HS-ST ngày 02/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:22/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 6 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về