Bản án 22/2019/HS-ST ngày 01/08/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN UYÊN, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 22/2019/HS-ST NGÀY 01/08/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 01 tháng 8 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Uyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 21/2019/TLST-HS ngày 24 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2019/QĐXXST-HS ngày 02/7/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Tòng Văn T; tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; sinh ngày 26/8/2000 tại huyện T, tỉnh Lai Châu; Nơi ĐKHKTT: Bản N, thị trấn T, huyện T, tỉnh Lai Châu; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 5/12; Con ông: Tòng Văn O, sinh năm 1968 và con bà Tòng Thị P, sinh năm 1970; Gia đình bị cáo có 05 anh chị em, bị cáo là con thứ tư trong gia đình; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giam từ ngày 18/3/2019 và bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu cho đến nay bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Bị hại: Anh Sìn Văn T1, sinh năm 13/3/2004.

Địa chỉ: Bản C, thị trấn T, huyện T, tỉnh Lai Châu. Vắng mặt tại phiên tòa không có lý do.

* Người đại diện hợp pháp cho bị hại: Bà Lò Thị T, sinh năm 1970.

Địa chỉ: Bản C, thị trấn T, huyện T, tỉnh Lai Châu.

Có mặt tại phiên tòa.

* Người làm chứng: Bà Tòng Thị P, sinh năm 1970

Địa chỉ: Bản N, thị trấn T, huyện T, tỉnh Lai Châu. Có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa cho bị cáo: ông Lê Văn H - Trợ giúp viên pháp lý - Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lai Châu, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Khoảng 17 giờ ngày 17/7/2018 Tòng Văn T xuống nhà Sìn Văn T1 sinh ngày 13/3/2004 chơi. Khi nói chuyện T nói có một điện thoại Itel loại màn hình cảm ứng, vỏ màu nâu hiện đang cầm cố ở cửa hàng điện thoại với giá 150.000đồng, nếu T cần thì đi chuộc về mà dùng. T đồng ý và cùng T1 đi chuộc điện thoại hết 170.000đồng. Đến 21 giờ cùng ngày T và T1 lên giường của T1 ngồi chơi điện tử. Do không có điện thoại nên T mượn T1 chiếc điện thoại mà T vừa đi chuộc về để chơi, chơi được một lúc thì T trả T1 và để ở đầu giường. Do buồn ngủ nên T1 ngủ trước, T quan sát thấy bóng điện đã tắt, mọi người trong nhà đều ngủ say nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. T lấy trộm tại vị trí giường ngủ của T1 04 chiếc điện thoại di động gồm 01 điện thoại Iphone 5S, vỏ màu vàng; một điện thoại Itel, màn hình cảm ứng, vỏ màu nâu mà T chuộc lại của cửa hàng điện thoại và 01 điện thoại Iphone 4 màu đen, 01 điện thoại NOKIA dạng bàn phím màu đen. Sau đó, T tiến lại gần tủ cạnh bàn uống nước tiếp tục lấy 01 chiếc loa Bluetooth loại cầm tay, hình chữ nhật màu đỏ. Lấy được tài sản T mở cửa đi ra ngoài tắt nguồn điện thoại và đi bộ về nhà, rồi lấy xạc điện thoại bỏ trốn. Sau khi bỏ trốn T kiểm tra tài sản trộm cắp được thì phát hiện 01 điện thoại Iphone 4 màu đen, 01 điện thoại NOKIA dạng bàn phím màu đen đã bị hỏng không còn sử dụng được, còn 01 điện thoại Iphone 5S, vỏ màu vàng và một điện thoại Itel, màn hình cảm ứng vỏ màu nâu và loa Bluetooth loại cầm tay vẫn còn sử dụng được.

Tại bản kết luận định giá số 06/KL-HĐĐGTS ngày 11/02/2019 của Hội đồng định giá tài sản huyện Tân Uyên kết luận: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu AAPLE Iphone 5S màu vàng (Gold), đã qua sử dụng, mua vào thời điểm tháng 01 năm 2018 có giá 2.000.000đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel, loại màn hình cảm ứng, vỏ màu nâu, đã qua sử dụng, bị nứt vỡ góc màn hình cảm ứng, mua ngày 17/7/2018 có giá 150.000đồng; 01 chiếc loa Bluetooth loại cầm tay, hình chữ nhật, màu đỏ, đã qua sử dụng mua tháng 01 năm 2018 có giá 300.000đồng. Tổng giá trị tài sản được định giá là 2.450.000đồng.

Bản cáo trạng số 21/CT-VKS ngày 22/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Uyên đã truy tố bị cáo Tòng Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về kết luận điều tra và bản cáo trạng nêu trên.

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 91, Điều 98, khoản 1 Điều 101; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Tòng Văn T từ 06 đến 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản". Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Bị cáo Tòng Văn T không có ý kiến tranh luận đối với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Uyên.

Đại diện hợp pháp cho bị hại đề nghị bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại số tài sản bị mất là 1.000.000đồng. Bị cáo nhất trí và tác động trực tiếp đến gia đình bồi thường ngay số tiền 500.000đồng. Còn lại 500.000đồng bị cáo tiếp tục sẽ có trách nhiệm để bồi thường cho bị hại.

Người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 91, Điều 98, khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự; điểm b,i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Tòng Văn T thời hạn tù bằng thời hạn tạm giam và áp dụng khoản 5 Điều 328 Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị Hội đồng xét xử tuyên trả tự do cho bị cáo ngay tại phiên tòa nếu bị cáo không bị tạm giam về một tội phạm khác. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Tại lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo có cơ hội sửa chữa sai lầm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Uyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Uyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:

Ngày 17/7/2018 tại bản C, thị trấn T, huyện T, tỉnh Lai Châu bị cáo Tòng Văn T, sinh ngày 26/8/2000 đã trộm cắp của Sìn Văn T 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu AAPLE Iphone 5S màu vàng (Gold), đã qua sử dụng có giá 2.000.000đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel, loại màn hình cảm ứng, vỏ màu nâu, đã qua sử dụng, bị nứt vỡ góc màn hình cảm ứng có giá 150.000đồng; 01 chiếc loa Bluetooth loại cầm tay, hình chữ nhật, màu đỏ, đã qua sử dụng có giá 300.000đồng. Tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt của anh Sìn Văn T là 2.450.000đồng. Mục đích mang về sử dụng cho bản thân.

Bị cáo Tòng Văn T, sinh ngày 26/8/2000 đến thời điểm phạm tội bị cáo được 17 tuổi 09 tháng 10 ngày nên vẫn là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Hành vi chiếm đoạt tài sản là xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, là vi phạm pháp luật, gây mất trật tự trị an trên địa bàn. Ý thức được điều đó nhưng vì nhu cầu của bản thân bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Như vậy, có đủ cơ sở để khẳng định hành vi của bị cáo Tòng Văn T đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Điều 173 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000đồng đến dưới 50.000.000đồng...thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

Vì vậy, quan điểm xử lý trách nhiệm hình sự của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là hoàn toàn có cơ sở, đúng pháp luật.

[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Ngày 30/3/2016 Tòa án nhân dân huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu đã áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng 24 tháng đối với Tòng Văn T về hành vi trộm cắp tài sản. Ngày 03/4/2018 bị cáo đã chấp hành xong. Do bị cáo là người chưa thành niên ở thời điểm phạm tội nên không xác định đây là tiền sự đối với bị cáo.

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo đã tác động trực tiếp đến gia đình để bồi thường số tiền 500.000đồng cho bị hại; bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng kinh tế khó khăn, đại diện hợp pháp cho bị hại đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bị cáo có ông nội được Nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng 3 nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo Tòng Văn T. Xét thấy, mặc dù bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhưng bị cáo đã bị Tòa án nhân dân huyện Tân Uyên áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng 24 tháng vì hành vi trộm cắp tài sản nhiều lần. Sau thời gian được giáo dục tại Trường giáo dưỡng bị cáo không lấy đó làm bài học, không tiếp tục tu dưỡng rèn luyện bản thân nên cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 6 Điều 91 Bộ luật hình sự tại thời điểm phạm tội bị cáo là người chưa thành niên nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng của vụ án: áp dụng khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel, loại màn hình cảm ứng, vỏ màu nâu, đã qua sử dụng, bị nứt vỡ góc màn hình cảm ứng. Xét đây là tài sản hợp pháp của anh Sìn Văn T nên cần trả lại cho anh T.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa đại diện hợp pháp của bị hại yêu cầu bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tài sản số tiền là 1.000.000đồng. Bị cáo và mẹ bị cáo hoàn toàn nhất trí và bồi thường ngay tại phiên tòa số tiền 500.000đồng. Do vậy, Hội đồng xét xử ghi nhận sự thỏa thuận của bị cáo và người đại diện hợp pháp của bị hại theo quy định tại điều 246 Bộ luật tố tụng dân sự.

[7] Về án phí: Do bị cáo là trẻ em, thuộc hộ nghèo và là đồng bào dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên miễn án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch cho bị cáo theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 91, Điều 98; Điều 101; khoản 2 điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 3 Điều 106; Điều 136; Điều 331, Điều 333; Điều 246 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 584, Điều 585, Điều 586, Điều 589 Bộ luật dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12- 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[1] Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Tòng Văn T phạm tội "Trộm cắp tài sản".

[2] Về hình phạt: Xử phạt bị cáo 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 18/3/2019.

[3] Về vật chứng:

Trả lại cho anh Sìn Văn T1, sinh năm 2000, trú tại bản Chạm Cả, thị trấn Tân Uyên, huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel, loại màn hình cảm ứng, vỏ màu nâu, đã qua sử dụng, bị nứt vỡ góc màn hình cảm ứng (Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 22/5/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Uyên với Chi Cục thi hành án dân sự huyện Tân Uyên).

[4] Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận sự thỏa thuận bồi thường thiệt hại về tài sản giữa bị cáo và đại diện hợp pháp cho bị hại, cụ thể:

Bị cáo trách nhiệm bồi thường số tiền 1.000.000đồng (Một triệu đồng) cho bị hại. Xác nhận gia đình bị cáo đã bồi thường cho bị hại số tiền 500.000đồng (Năm trăm nghìn đồng), còn lại số tiền 500.000đồng (Năm trăm nghìn đồng) bị cáo có trách nhiệm tiếp tục bồi thường cho bị hại.

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại điều 6, điều 7 và điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

[5] Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch cho bị cáo.

[6] Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị hại được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

268
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2019/HS-ST ngày 01/08/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:22/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Uyên - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về