Bản án 22/2019/HNGĐ-ST ngày 29/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ T, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 22/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/05/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 29 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã T tiến hành phiên tòa sơ thẩm công khai xét xử vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 48/2019/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 3 năm 2019 về việc ly hôn, tranh chấp nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 32/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 23 tháng 4 năm 2019 giữa:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Kim S, sinh năm 1993; địa chỉ: Tổ 6, khu phố 7, phường U, thị xã T, tỉnh Bình Dương. Có mặt

- Bị đơn: Ông Lê Văn L, sinh năm 1989; địa chỉ thường trú: Số 89, đường số 02, ấp N, xã X, thị xã L, tỉnh Đồng Nai. Chỗ ở hiện nay: Nhà trọ Nguyễn Văn G, tổ 6, khu phố 7, phường U, thị xã T, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 20/02/2019, trong quá trình giải quyết tại phiên tòa, chị Nguyễn Thị Kim S trình bày:

Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Kim S và ông Lê Văn L tự nguyện tìm hiểu và tiến tới hôn nhân. Bà S và ông L có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã X, thị xã L, tỉnh Đồng Nai theo Giấy chứng nhận kết hôn số 39/2011, quyển số 01/2011 ngày 07/7/2011. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2014 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên cãi vã, ông L không quan tâm, chăm sóc gia đình. Mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, bà S và ông L đã nhiều lần cố gắng hòa giải nhưng không thành. Đến năm 2016, để tránh việc vợ chồng cãi nhau làm ảnh hưởng đến các con nên bà S đã dẫn hai con về nhà cha mẹ ruột ở tổ 6, khu 7, phường U, thị xã T, tỉnh Bình Dương sinh sống cho đến nay. Sau đó, ông L cũng bỏ về nhà cha mẹ ruột của ông L ở Đồng Nai để sinh sống. Từ đó đến nay, bà S và ông L không còn sống với nhau, ông L cũng không quan tâm, chăm sóc vợ con. Trong suốt thời gian vợ chồng ly thân, một mình bà S nuôi dạy và chăm sóc các con, ông L không không phụ giúp bà S nuôi con. Bà S nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà S yêu cầu được ly hôn với ông Lê Văn L.

Về con chung: Bà S và ông L có một con chung tên Lê Hoàng Trọng P, sinh ngày 25/02/2011. Khi ly hôn, bà S yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung, không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện tống đạt, niêm yết đầy đủ văn bản tố tụng cho ông Lê Văn L theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tuy nhiên, ông L không đến Tòa án, cũng không nộp văn bản ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không cung cấp các tài liệu, chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Theo biên bản xác minh ngày 19/3/2019, tại Ủy ban nhân dân phường U, thị xã T, tỉnh Bình Dương thì đương sự bà Nguyễn Thị Kim S, sinh năm 1993 có đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa chỉ tổ 6, khu phố 7, phường U, thị xã T, tỉnh Bình Dương (hộ ông Nguyễn Văn G). Đương sự Lê Văn L, sinh năm 1989 có đăng ký tạm trú tại địa chỉ tổ 6, khu phố 7, phường U, thị xã T, tỉnh Bình Dương (hộ ông Nguyễn Văn G). Bà Nguyễn Thị Kim S và ông Lê Văn L không đăng ký kết hôn tại UBND phường U. Trong thời gian các đương sự cư trú tại địa phương thì UBND phường U không tiếp nhận bất kỳ thông tin trình báo nào của bà S và ông L về mâu thuẫn gia đình hoặc bạo hành gia đình. Do đó, địa phương không biết được mâu thuẫn gia đình của bà Nguyễn Thị Kim S và ông Lê Văn L.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã T tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm như sau:

Về tố tụng: Tòa án nhân dân thị xã T thụ lý vụ án đúng thẩm quyền, đưa vụ án ra xét xử đúng hạn luật định. Quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán đã tiến hành đầy đủ các thủ tục tố tụng đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy định. Đại diện Viện kiểm sát không có yêu cầu và kiến nghị để khắc phục vi phạm tố tụng.

Về nội dung: Bà Nguyễn Thị Kim S và ông Lê Văn L tự nguyện chung sống có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Bà S xác định vợ chồng không còn sống cùng nhau, mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống hôn nhân không thể kéo dài, ông L không còn quan tâm chăm sóc vợ con. Do vậy, bà S yêu cầu ly hôn ông L là có căn cứ. Về con chung, xét thấy cháu Lê Hoàng Trọng P, sinh ngày 25/02/2011 hiện đang sống cùng bà S và bà S đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc con chung đảm bảo phát triển về mọi mặt nên bà S yêu cầu được nuôi con chung là có căn cứ. Về cấp dưỡng nuôi con, đương sự không yêu cầu nên không đặt ra xem xét. Về tài sản chung, nợ chung, các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hơp lệ văn bản tố tụng hợp lệ cho ông L nhưng ông L không đến Tòa làm việc, hòa giải, tiếp cận công khai chứng cứ, không nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án là vi phạm nghĩa vụ của đương sự, tự từ bỏ quyền và nghĩa vụ chứng minh của mình nên Hội đồng xét xử căn cứ vào các chứng cứ có trong hồ sơ để giải quyết vụ án theo quy định pháp luật.

Bị đơn ông Lê Văn L được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không lý do. Do vậy, Hội đồng xét xử xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Kim S và ông Lê Văn L có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã X, thị xã L, tỉnh Đồng Nai ngày 07/7/2011 là hôn nhân hợp pháp. Bà S xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu ly hôn. Xét thấy, quá trình tố tụng tại Tòa án, ông L không đến Tòa án cho thấy ông L không thiện chí hòa giải để vợ chồng đoàn tụ, đồng thời bà S kiên quyết ly hôn. Do vậy, có căn cứ xác định tình trạng hôn nhân bà S và ông L mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài nên việc bà S yêu cầu ly hôn với ông L là có căn cứ theo quy định tại Điều 51 và Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Bà S yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Lê Hoàng Trọng P, sinh ngày 25/02/2011. Xét thấy, con chung Lê Hoàng Trọng P hiện tại đang sống cùng bà S, bà S đủ điều kiện để trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Do vậy, yêu cầu trực tiếp nuôi con chung của bà S là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con chung: Bà S không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp.

[7] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Kim S phải chịu theo quy định.

V các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 147, Điều 227, Điều 266, Điều 269, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Kim S được ly hôn với ông Lê Văn L.

2. Về con chung: Giao con chung tên Lê Hoàng Trọng P, sinh ngày 25/02/2011 cho bà Nguyễn Thị Kim S trực tiếp nuôi dưỡng. Ông Lê Văn L không phải cấp dưỡng nuôi con.

Bà Nguyễn Thị Kim S và ông Lê Văn L đều có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trường hợp ông L lạm dụng quyền thăm nom con để gây cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc chăm sóc, giáo dục con của bà S thì bà S có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền tham nom con của ông L. Vì lợi ích của con chưa thành niên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con khi có đơn yêu cầu.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Lê Thị Kim S phải chịu 300.000 đồng, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0014824 ngày 08/3/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã T, tỉnh Bình Dương.

5. Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yều cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2019/HNGĐ-ST ngày 29/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:22/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về