Bản án 22/2018/HS-ST ngày 29/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 22/2018/HS-ST NGÀY 29/06/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 22/2018/TLST-HS ngày 11-6-2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2018/QĐXXST–HS ngày 19-6-2018 đối với bị cáo:

Hà Văn A; Sinh năm 1995 tại Hòa Bình

Nơi ĐKHKTT (nơi ở): Xóm X, xã T.P, huyện Đ, tỉnh Hòa Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 6/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hà Văn B, sinh năm 1969; con bà Lường Thị C, sinh năm 1972; vợ là Lương Thị D, sinh năm 1996 có 01 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 30-9-2014 TAND huyện Đ, tỉnh Hòa Bình xử phạt 6 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 12-5-2015 Công an huyện P.T, thành phố Hà Nội xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 01-4-2018 đến nay (Có mặt).

* Người làm chứng:

- Ông Trần Quang E; sinh năm 1959; địa chỉ: Thôn T, thị trấn G, huyện V, tỉnh Nam Định (Vắng mặt).

- Anh Trần Văn F; sinh năm 1976; địa chỉ: Thôn T, thị trấn G, huyện V, tỉnh Nam Định (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hà Văn A mới quen biết với bạn nghiện tên là T (Không rõ địa chỉ), khoảng 11h30 phút ngày 01-4-2018, A đang ở khu công nghiệp Bảo Minh, huyện V, tỉnh Nam Định thì T điều khiển xe mô tô đến và rủ A đi mua ma túy về sử dụng, A đồng ý và ngồi lên xe mô tô do T điều khiển đi theo quốc lộ 10 về thị trấn G, huyện V, tỉnh Nam Định. Trên đường đi A đưa cho T 100.000đ (Một trăm nghìn đồng) để mua ma túy. Khi đi đến khu vực thị trấn G, T bảo A xuống xe đứng đợi còn T cầm tiền đi mua ma túy một mình. Khoảng 15 phút sau T quay lại chỗ A đứng và bảo A lên xe. T đưa cho A 01 túi ni lon bên trong có hai bơm kim tiêm bằng nhựa đã bóc vỏ, hai gói ma túy (Heroine). A cầm và bỏ vào túi quần bên phải phía trước đang mặc. T điều khiển xe chở A đi đến đường liên thôn thuộc thôn Vân Côi, thị trấn G, huyện V, tỉnh Nam Định thì T bảo A xuống xe đứng đợi để T đi mua chai nước lọc. Tại đây Công an huyện V phát hiện A có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy nên đã yêu cầu A cho kiểm tra người. A đã tự giác lấy 02 bơm kim tiêm bằng nhựa và hai gói ma túy (Heroine) ở trong túi quần bên phải phía trước đang mặc giao nộp cho Công an.

Công an huyện V lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ: 02 gói nhỏ có đặc điểm vỏ ngoài là lớp giấy bạc màu vàng, bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng mà A khai là heroine vừa mua được niêm phong ký hiệu M, 02 bơm kim tiêm bằng nhựa đã bóc vỏ đựng trong một túi ni lon.

Tại bản kết luận giám định số 292/GĐKTHS ngày 02-4-2018 của Phòng Kỹ Thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định đã kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng được niêm phong ký hiệu M gửi giám định là ma túy. Loại ma túy: Heroine. Tổng trọng lượng (Tổng khối lượng) mẫu M: 0,125 gam.

Tại cơ quan điều tra Hà Văn A khai nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của mình như đã nêu trên.

* Tại bản cáo trạng số 22/CT – VKSVB ngày 07-6-2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện V đã truy tố Hà Văn A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015.

* Tại phiên tòa, bị cáo Hà Văn A thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung đã nêu trên.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V tham gia phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố Hà Văn A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015, xử phạt Hà Văn A từ 24 tháng đến 30 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị tịch thu tiêu hủy toàn bộ vật chứng đã thu giữ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tai phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện V, Viện kiểm sát nhân dân huyện V, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng. Do đó, các hành vi quyết định của Cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ và tội danh đối với bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo Hà Văn A tại phiên tòa thống nhất với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu chứng cứ đã thu thập được như: Lời khai của người làm chứng là ông Trần Quang E và anh Trần Văn F; biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng; bản kết luận giám định số 292/GĐKTHS ngày 02-4-2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định; cùng toàn bộ các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, nên đã có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 11h50 phút ngày 01-4-2018 tại đường liên thôn thuộc thôn Vân Côi, thị trấn G, huyện V, tỉnh Nam Định, Hà Văn A đã có hành vi cất giấu trái phép 02 gói ma túy (heroine) có tổng trọng lượng là 0,125 gam với mục đích sử dụng thì bị bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội "Tàng trữ trái phép chât ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015 như Viện kiểm sát nhân dân huyện V đã truy tố là có căn cứ và đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm tới chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, ảnh hưởng xấu tới trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện để thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy của bản thân. Vì vậy cần xử lý nghiêm trước pháp luật và có mức hình phạt thỏa đáng để giáo dục cải tạo bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[3] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[4] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Đường lối xử lý hành vi phạm tội của bị cáo: Căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo. Hội đồng xét xử thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm trừng trị, đồng thời giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ ma túy khối lượng ít, với mục đích xử dụng nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng: Cần tịch thu tiêu hủy toàn bộ vật chứng là heroin và bơm kim tiêm đã thu giữ.

[8] Đối với người nam thanh niên tên T đi mua ma túy cho Hà Văn A: Do A không xác định được đầy đủ họ tên, tuổi, địa chỉ của người này nên cơ quan CSĐT Công an huyện V tách ra điều tra làm rõ xử lý sau.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015.

- Tuyên bố bị cáo Hà Văn A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt bị cáo Hà Văn A 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 01-4-2018.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy toàn bộ heroin trong 01 phong bì niêm phong số 292/GĐKTHS và 02 bơm kim tiêm bằng nhựa đã thu giữ.

(Vật chứng có đặc điểm, chủng loại như biên bản giao nhận vật chứng tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện V ngày 11-6-2018).

3. Án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự ; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Hà Văn A phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2018/HS-ST ngày 29/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:22/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vụ Bản - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về