Bản án 22/2018/HS-ST ngày 12/04/2018 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BA VÌ, TP. HÀ NỘI

BẢN ÁN 22/2018/HS-ST NGÀY 12/04/2018 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Trong ngày 12 tháng 4 năm 2018 tại phòng xét xử Tòa án nhân dân huyện B - thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 15/2018/HSST ngày 06/3/2018, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2018/QĐXX- HSST ngày 29/3/2018 đối với bị cáo:

PHƯƠNG PHÚ H: Sinh năm: 1982; Tên gọi khác: C; Sinh quán: xã MC - huyện B - TP. Hà Nội; Nơi ở:Thôn Q P - xã YB - huyện B - TP. Hà Nội ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không ; Trình độ văn hoá: 05/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Phương Phú S, SN 1950 (đã chết) và bà Hán Thị X, SN: 1952; Vợ Nguyễn Thị Q, SN 1986 và có 02 con, con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2015; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/10/2017 cho đến nay. Bị cáo hiện đang bị tạm giam tại Trại giam số 1- Công an thành phố Hà Nội, Số giam 506 Q1, Buồng giam: B8. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

3. Ng ười bị hại :

- Anh Trần Văn T - sinh năm 1981

Địa chỉ: Thôn QP - xã YB - huyện B - TP. Hà Nội. ( anh T có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: 

Khoảng 21h ngày 27.10.2017, Phương Phú H đang chơi ở nhà anh rể là Nguyễn Trung T1 (SN 1970 - ở Y B, cách nhà khoảng 200 m) thì nhận được điện thoại của vợ là chị Nguyễn Thị Q bảo “Anh ơi về, có người đang nhìn trộm em tắm”. Khoảng 05 phút sau, H đi bộ về đến nhà, theo lời của vợ H bật đèn pin điện thoại lên đi soi quanh vườn chè, khu tường bao nhưng không thấy ai nên H đi vào sân hút thuốc. Lúc này chị Q đứng ở cửa bếp, cạnh chỗ chị Nguyễn Thị N (SN 1991-ở TN là bạn gái của Đinh Văn Q2 em trai chị Q) đang sao chè, chị Q nói “Vẫn thấy có người ở phía sau”. Nghe vậy H cầm 01 chiếc đèn pin (loại đèn pin đeo ở trên đầu) ở tay phải và 01 con dao nhọn (tổng chiều dài 43 cm, chuôi dao bằng gỗ dài 12 cm, thân dao bằng kim loại dài 31cm, có 01 lưỡi sắc, mũi dao vát nhọn, bề mặt rộng nhất của dao là 4,1cm) ở tay trái rồi ra vườn xem lại, khi ra đến gần chuồng gà thì phát hiện hàng rào bằng lưới B40 bị đổ. Biết là đã có người đi qua đây, H tiếp tục soi vào chuồng gà thì thấy có người đang núp bên trong, chỉ có vạt áo màu đỏ hở, đầu và mặt thì bị che sau tấm ván gỗ. Thấy dưới đất có viên gạch chỉ (loại gạch bằng đất nung, dùng trong xây dựng), H chuyển đèn sang tay trái rồi thò tay xuống nhặt 01 viên gạch chỉ, khi tiến đến gần người đang núp trong chuồng gà khoảng 1,5m, H dơ tay phải lên ném thẳng viên gạch vào hướng về người đang núp thì trúng vào mặt làm rách da ở đuôi mắt trái. Bị ném trúng người này đứng dậy, H nhận ra đây là anh Trần Văn T là hàng xóm. Nghi ngờ T đã nhìn trộm vợ mình tắm, H cầm dao ở tay trái chém về hướng T, T dơ tay trái lên đỡ nên bị rách da và định bỏ chạy ra bên ngoài. Thấy vậy H hạ dao ngang bụng, mũi dao hướng về phía trước, chuôi dao hướng phía sau lao về phía T đang lao ra, đâm trúng vào bụng anh T. Thấy đau nhói ở bụng, T dùng tay đẩy H ra rồi bỏ chạy, H đuổi theo. Khi H, T đang giằng có với nhau thì anh Đinh Văn Q1 được chị Q gọi nên chạy từ trong nhà ra vườn can ngăn, Q1 giữ T lại không cho hai người đánh nhau. Cùng lúc này, nghe thấy có tiếng xô xát, chị Nguyễn Thị M là vợ của anh T chèo qua tường bao sang thì thấy anh T đã bị thương. Sau đó T bỏ chạy qua vườn về nhà và được gia đình đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện 105 S T- Hà Nội.

Tại Cơ quan điều tra Công an huyện B Phương Phú H đã thành khẩn khai nhận toàn bộ về hành vi phạm tội của bản thân ngày 27.10.2017.

Tại Bản kết luận giám định pháp y thương tích số 929/TTPY ngày 02/11/2017 của Trung tâm pháp y thuộc Sở y tế Hà Nội kết luận:

- Các vết thương, vết mổ, vết dẫn lưu: 08%

- Thủng đại tràng đã phẫu thuật làm hậu môn nhân tạo tạm thời: 41 %-Tổn thương mạc treo đại tràng ngang và mạc treo đại tràng bên đã phẫu thuật khâu cầm máu: 26 %Tỷ lệ tổn hại sức khỏe là 60% (sáu mươi phần trăm) Cơ chế hình thành thương tích: Nhiều khả năng các thương tích do vật có cạnh sắc gây nên.

Đối với anh Đinh Văn Q1: quá trình điều tra xác minh đã làm rõ, Q1 không tham gia đánh anh T. Khi Q1 đang ở trong nhà chơi thì có chị Q1 vào gọi ra xem anh H đang đánh nhau với ai, Q1 chạy ra giữ T là để can ngăn không cho H, T đánh nhau. Do vậy Cơ quan điều tra Công an huyện B không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Q.

Đối với chị Nguyễn Thị Q và Nguyễn Thị N: Quá trình đánh nhau, Q và N không tham gia. Việc H đâm anh T thì N, Q không biết. Do vậy Cơ quan điều tra Công an huyện B không xem xét xử lý Q, N.

Vật chứng vụ án CQĐT thu giữ:

01 con dao dài 43cm, chuôi bằng gỗ dài 12 cm, thân dao bằng kim loại dài 31 cm, có 01 lưỡi sắc, mũi dao vát nhọn, bề mặt rộng nhất là 4,1 cm, dao đã qua sử dụng. Là hung khí H dùng để đâm T, do chị Q giao nộp ngày 28.10.2017.

01 chiếc áo phông cộc tay màu đỏ, có cổ bẻ, phần thân áo phía trước, bên trái có 01 vết rách dài 5,5 cm, tâm vết cách mép dưới cùng vạt áo 13 cm, phía sau lưng in chữ EH HÀ TÂY T-EH&EH (đã qua sử dụng). Là chiếc áo anh T mặc trong đêm bị H đâm gây thương tích. Chiếc áo do chị Nguyễn Thị M giao nộp ngày 29.10.2017.

Về dân sự: Gia đình Phương Phú H đã tự nguyện bồi thường cho anh T số tiền 30.000.000 đồng. Tại Cơ quan điều tra Công an huyện B anh T yêu cầu gia đình anh H bồi thường thêm cho anh 70.000.000 đồng bao gồm tiền thuốc men, viện phí và tổn hại sức khỏe. Đến ngày 12.02.2018, anh T có đơn yêu cầu Phương Phú H bồi thường là 155.000.000 đồng. Phương Phú H đề nghị giải quyết việc bồi thường thương tích theo quy định của pháp luật.

* Bản cáo trạng số 17/2018/CT- VKS ngày 05 tháng 03 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tp Hà Nội đã truy tố bị cáo Phương Phú H về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015; Tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát B đã nêu. Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện B, thành phố Hà Nội tham gia phiên toà giữ quyền công tố phát biểu luận tội vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng.

* Đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134 điểm b, e, s khoản 1 điều 51; điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Phương Phú H từ 05 năm đến 06 năm tù thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 27/10/2017.

Về dân sự : Buộc bị cáo Phương Phú H phải bồi thường thương tích các khoản tiền viện phí, tiền bồi dưỡng sức khỏe, tiền ngày công mất thu nhập, các khoản tiền khác từ 110 triệu đến 130 triệu đồng .

Về vật chứng vụ án : Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự, điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 tịch thu tiêu hủy 01 con dao dài 43cm, chuôi bằng gỗ dài 12 cm, thân dao bằng kim loại dài 31 cm, có 01 lưỡi sắc, mũi dao vát nhọn, bề mặt rộng nhất là 4,1 cm, dao đã qua sử dụng. Là hung khí H dùng để đâm anh T và 01 chiếc áo phông cộc tay màu đỏ, có cổ bẻ, phần thân áo phía trước, bên trái có 01 vết rách dài 5,5 cm, tâm vết cách mép dưới cùng vạt áo 13 cm, phía sau lưng in chữ EH HÀ TÂY T-EH&EH (đã qua sử dụng) Là chiếc áo anh T mặc trong đêm bị H đâm gây thương tích.

Về án phí : Buộc bị cáo phải chịu án phí theo qui định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện B- thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện B- thành phố Hà Nội, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hịên đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại g× về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng qui định của pháp luật.

Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại phiên tòa bị cáo lúc đầu chưa thực sự thành khẩn, sau khi đấu tranh và công bố các lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra thì bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện B, thành phố Hà Nội đã nêu. Xét lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người bị hại, người làm chứng cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ. Như vậy Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 21 giờ ngày 27/10/2017 khi nghe được điện thoại của chị Q nói là có người đang nhìn chị tắm, H đang chơi ở nhà anh rể là Nguyễn Trung T1 chạy về, sau khi dùng đèn pin soi quanh vườn chè, khu tường bao xung quanh không thấy có ai, H đi vào sân đứng ở sân hút thuốc, thì chị Q nói “ vẫn thấy có người ở phía sau”. H cầm một chiếc đèn pin ở tay phải và 01 con dao nhọn ở tay trái đi ra vườn thì phát hiện hàng rào bằng lưới B40 bị đổ. H soi tiếp thì phát hiện có một người đang núp trong chuồng gà, H chuyển đèn sang tay trái, tay phải nhặt viên gạch chỉ tiến gần đến người đang núp trong chuồng gà cách khoảng 1,5m ném thẳng viên gạch vào tấm ván trúng mặt người đang núp đó là anh Trần Văn T làm rách da ở đuôi mắt trái, do nghi ngờ anh T nhìn trộm vợ mình tắm, H cầm dao ở tay trái chém về phía anh T, anh T dơ tay lên đỡ nên bị rách da ở tay và định chạy ra ngoài thì bị H hạ dao ngang bụng, mũi dao hướng về phía trước, chuôi dao hướng phía sau đâm trúng vào bụng anh T, anh T đẩy tay H ra để bỏ chạy ra vườn chè H đuổi theo đang tiếp tục rằng co thì được anh Q1 vào can ngăn, lúc này chị Nguyễn Thị M là vợ của anh T đã trèo qua tường bao sang thấy anh T đã bị thương nên cùng gia đình đã đưa anh T đi cấp cứu tại Bệnh viện Quân y 105 - ST - Hà Nội từ ngày 27/10/2017 đến ngày 08/11/2017thì ra viện. Tại Bản kết luận giám định pháp y thương tích số 929/TTPY ngày 02/11/2017 của Trung tâm pháp y thuộc Sở y tế Hà Nội kết luận:

-Các vết thương, vết mổ, vết dẫn lưu: 08%

-Thủng đại tràng đã phẫu thuật làm hậu môn nhân tạo tạm thời: 41 % -Tổn thương mạc treo đại tràng ngang và mạc treo đại tràng bên đã phẫu thuật khâu cầm máu: 26 %Tỷ lệ tổn hại sức khỏe là 60% (sáu mươi phần trăm)

Cơ chế hình thành thương tích: Nhiều khả năng các thương tích do vật có cạnh sắc gây nên. Hành vi dùng 01 viên gạch chỉ ném vào mặt anh T và 01 con dao nhọn ( dài 43cm, chuôi bằng gỗ dài 12 cm, thân dao bằng kim loại dài 31 cm, có 01 lưỡi sắc, mũi dao vát nhọn, bề mặt rộng nhất là 4,1 cm ) đâm vào bụng anh T làm anh T bị thương tích 60%, là hung khí nguy hiểm. Hành vi của Phương Phú H đã đủ yếu tố cấu thành tội “ Cố ý gây thương tích” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 3 điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015. Do vậy việc truy tố bị cáo Phương Phú H ra trước Tòa án để xét xử về tội danh và điều luật trên của Viện kiểm sát nhân dân huỵện B, thành phố Hà Nội là có căn cứ, đúng pháp luật.

Đối với anh Đinh Văn Q1: quá trình điều tra xác minh đã làm rõ, Q1 không tham gia đánh T. Anh Q chạy ra giữ Th là để can ngăn không cho H, T đánh nhau; Đối với chị Nguyễn Thị Q và Nguyễn Thị N: Quá trình H và anh T đánh nhau, chị Q và chị N không tham gia vào việc H đâm anh T. Do vậy Cơ quan điều tra Công an huyện B không xem xét xử lý Q1, Q, N là đúng quy định của pháp luật.

Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng hành vi phạm của bị cáo là nguy hiểm đã xâm phạm đến tính mạng sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự an địa phương, gây mất trật tự, an ninh xã hội. Thể hiện ý chí coi thường pháp luật, coi thường tính mạng của người khác, chỉ vì nghi ngờ có người nhìn trộm vợ mình tắm nên khi nhìn thấy anh Trần Văn T nấp trong chuồng gà nhà mình H đã mất bình tĩnh không kiềm chế được bản thân Hòa đã có hành vi dùng gạch ném vào mặt và dùng dao đâm vào bụng gây thương tích cho anh T. Vì vậy cần phải xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên khi lượng hình Hội đồng xét xử phải xem xét đánh giá tính chất, mức độ, hành vi, tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để có mức án đúng và phù hợp với tính chất và hành vi phạm tội của bị cáo.

Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên toà sau khi đấu tranh các lời khai thì bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo cùng gia đình đã tự nguyện khắc phục hậu quả bồi thường cho anh Trần Văn T số tiền 30 triệu đồng, người bị hại đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị cáo phạm tội trong trường hợp do lỗi một phần từ phía người bị hại. Vì vậy bị cáo được hưởng các tình tiết qui định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Qua phân tích các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Hội đồng xét xử nhận thấy: Bị cáo Phương Phú H là một thanh niên tuổi đời còn trẻ được sinh ra trong gia đình nông dân thuần túy. Bản thân có sức khỏe là lao động chính trong gia đình lẽ ra bị cáo phải chấp hành các qui định của pháp luật để nuôi dạy các con cái, tu dưỡng rèn luyện bản thân giúp ích cho gia đình và xã hội. Xong cũng vì có mâu thuẫn nhỏ từ trước nghi ngờ anh Trần Văn T nhìn trộm vợ mình tắm nên Phương Phú H đã dùng hung khí nguy hiểm đâm chém gây thương tích cho anh Trần Văn Thường. Xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo Phương Phú H ra khỏi đời sống xã hội một thời gian theo điều 38 Bộ luật hình sự mới có tác dụng giáo dục các bị cáo trở thành người công dân tốt. Tuy nhiên Hội đồng xét xử cũng xem xét đánh giá nguyên nhân dẫn đến việc Phương Phú H có hành vi phạm tội để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, trong vụ án này có một phần do lỗi của người bị hại đã hơn 21 giờ anh Trần Văn T sang núp trong chuồng gà của nhà bị cáo làm cho bị cáo hiểu là anh Trần Văn T có ý đồ xấu nên đã gây thương tích cho anh T.

*Về dân sự:

- Anh Trần Văn Th đã có đơn đề nghị Phương Phú H phải bồi thường cho anh Thường 155.000.000đ ( Một trăm năm mươi lăm triệu đồng) tương ứng với số tiền viện phí, tiền thuốc, hao tổn sức khỏe, tiền mua túi hậu môn, tổn thất về tinh thần do bị H gây ra ngày 22/10/2017. Tại phiên toà anh Trần Văn T đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết mức bồi thường cho anh theo qui định của pháp luật, bị cáo cũng đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật. Theo quy định tại điều 590 Bộ luật dân sự năm 2015, Nghị quyết số 03/2006/NQ - HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối Cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự về bồi thường thiệt hại. Xét yêu cầu bồi thường thiệt hại về sức khỏe, chi phí, tiền thuốc, tiền viện phí và tinh thần của anh T là có căn cứ để chấp nhận. Tuy nhiên Hội đồng xét xử sẽ chấp nhận mức bồi thường cho anh Trần Văn T theo quy định của pháp luật cụ thể như sau:

Chi phí khám chữa bệnh, hồi phục sức khỏe của anh Trần Văn T

+ Chi phí khám chữa bệnh tại Bệnh viện Quân y 105 (lần1); từ ngày 27/10/2017 đến 08/11/2017 tổng số tiền là 23.023.178 đ ( Hai mươi ba triệu không trăm hai mươi ba nghìn một trăm bảy mươi tám đồng). Chi phí khám chữa bệnh tại Bệnh viện Quân y 105 (lần 2); từ ngày 05/01/2018 đến 06/01/2018 tổng số tiền là 1.389.790đ ( Một triệu ba trăm tám mươi chín nghìn, bảy mươi chín đồng). Tổng hai lần là 24.412.968đ (Hai mươi bốn triệu bốn trăm mười ba nghìn đồng).

+ Tiền mua thuốc theo đơn thuốc MG-Tan 960ml ngày 28/10/2017 là 615.000đ, ngày 29/10/2017 lần hai là 615.000đ, tổng 2 lần 1.230.000 đ;

+ Tiền thuê xe đi giám định một lần: 1.000.000 đ.

+ Người bị hại anh Trần Văn T bị mất thu nhập thực tế của những ngày nằm viện từ ngày 27/10/2017 đến 08/11/2017(14 ngày) 200.000đ/1 ngày = 2.800.000đ.

+ Tiền công cho hai người đi chăm sóc trong thời gian điều trị tại bệnh viện là: 14 ngày x 2 = 28 ngày. Căn cứ vào mức thu nhập bình quân hiện nay tại địa bàn xã Y B là 200.000 đ/ 1 ngày x 28 ngày = 5.600.000 đ.

+ Tiền thuê xe đưa đi viện từ YB xuống Bệnh viện 105 khoảng từ 15 đến 20 km/1 lượt hai lần tổng 4 lượt cả đi và về là 250 000đ/1 lượt x 4 lượt = 1.000.000 đ.

+ Tiền bồi dưỡng sức khỏe cho anh T trong thời gian nằm viện: 100.000 đ/ 1 ngày x 14 ngày nằm viện = 1.400.000 đồng.

+ Tiền sau khi xuất viện anh T phỉa mua túi hậu môm (Braun) ngày 07/11/2017 là 1.204.000 đ; ngày 14/11/2017 là 2.150.000đ; ngày 17/12/2017 là 2.150.000đ;ngày 06/01/2018 là 1.260.000 đ; ngày 20/01/2018 là 1.260.000đ; ngày 11/2/2018 là 420.000đ; ngày 20/03/2018 là 1.554.000đ tổng là 9.998.000 đồng.

+Tiền công một người chăm sóc thường sau khi T ra viện 2 tháng, căn cứ vào mức thu nhập bình quân hiện nay tại địa bàn xã YB là 200.000 đ/ 60 ngày = 12.000.000 đ.

+ Theo các tài liệu được thu thập tại cơ quan điều tra và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì bị hại anh Trần văn T không có nghề nghiệp ổn định nhưng để đảm bảo quyền lợi cho người bị hại Hội đồng xét xử sẽ tính thu nhập theo mức lương cơ sở do nhà nước qui định tại thời điểm xét xử. Căn cứ vào chứng thương và kết quả ra viện thì bị hại phải có một thời gian khắc phục sức khỏe từ 10 tháng đến 12 tháng cho anh Thường, do vậy HĐXX tính 12 tháng x 1.300.000 đồng ( lương cơ bản)= 15.600.000 đ.

+ Tiền bù đắp tổn thất về tinh thần 12 tháng x 1.300.000 đồng= 15.600.000 đồng. Vậy tổng chi phí mà anh Trần Văn T được Hội đồng xét xử chấp nhận để buộc bị cáo Phương Phú H phải bồi thường là 90.640.968 đồng (Chín mươi triệu sáu trăm bốn mươi nghìn chín trăm sáu mươi tám đồng). Bị cáo đã bồi thường cho anh T số tiền 30.000.000 đồng. Nay buộc bị cáo phải tiếp tục bồi thường cho anh T số tiền 60.640.968đ ( Sáu mươi triệu sáu trăm bốn mươi nghìn chín trăm sáu mươi tám đồng).

Về vật chứng vụ án : Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự, điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự :

Cần tịch thu tiêu hủy 01 con dao dài 43cm, chuôi bằng gỗ dài 12 cm, thân dao bằng kim loại dài 31 cm, có 01 lưỡi sắc, mũi dao vát nhọn, bề mặt rộng nhất là 4,1cm, dao đã qua sử dụng. Là hung khí H dùng để đâm anh T, đây là công cụ bị cáo dùng để phạm tội và 01 chiếc áo phông cộc tay màu đỏ, có cổ bẻ, phần thân áo phía trước, bên trái có 01 vết rách dài 5,5 cm, tâm vết cách mép dưới cùng vạt áo 13 cm, phía sau lưng in chữ EH HÀ TÂY T-EH&EH (đã qua sử dụng). Là chiếc áo anh T mặc trong đêm bị H đâm gây thương tích.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên :

QUYẾT ĐỊNH

1/. Xử : Tuyên bố bị cáo Phương Phú H phạm tội “ Cố ý gây thương tích”.

2/ Áp dụng: Điểm c, khoản 3 điều 134, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 điều 51; điều 38 Bộ luật hình sự ; Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự

Xử phạt : Bị cáo Phương Phú H 05 (năm) năm tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 28/10/2017. Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày để đảm bảo thi hành án

3./ Về dân sự : áp dụng điều 590, điều 357 Bộ luật dân sự :

Buộc bị cáo Phương Phú H phải bồi thường tiếp cho anh Trần Văn T số tiền 60.640.968đ ( Sáu mươi triệu sáu trăm bốn mươi nghìn chín trăm sáu mươi tám đồng).

Bác các yêu cầu khác của anh Trần Văn T

Kể từ khi án có hiệu lực pháp luật anh Trần Văn T có đơn yêu cầu thi hành án. Chi cục Thi hành án dân sự huyện B ra quyết định thi hành án thì bị cáo Phương Phú H phải chịu lãi suất phát sinh trên số tiền chưa thi hành án theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước qui định.

4./ Về vật chứng vụ án: Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015:

Tịch thu tiêu hủy: Một con dao dài 43cm, chuôi bằng gỗ dài 12 cm, thân dao bằng kim loại dài 31 cm, có 01 lưỡi sắc, mũi dao vát nhọn, bề mặt rộng nhất là 4,1 cm, dao đã qua sử dụng và một chiếc áo phông cộc tay màu đỏ, có cổ bẻ, phần thân áo phía trước, bên trái có 01 vết rách dài 5,5 cm, tâm vết cách mép dưới cùng vạt áo 13 cm, phía sau lưng in chữ EH HÀ TÂY T-EH&EH (đã qua sử dụng) (theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 14/03/2018 giữa Cơ quan điều tra Công an huyện Ba Vì và Chi cục thi hành án Dân sự huyện Ba Vì).

5/. Về án phí : áp dụng điều 135, điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ; khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14.

Bị cáo Phương Phú H phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 3.032.048đ ( Ba triệu không trăm ba mươi hai nghìn không trăm bốn mươi tám đồng)án phí dân sự sơ thẩm.

6/. Về quyền kháng cáo: Áp dụng điều 331, điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Bị cáo, người bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi haàn án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều6,điều 7 và điều 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự ”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

250
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2018/HS-ST ngày 12/04/2018 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:22/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ba Vì - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về