Bản án 58/2018/HS-ST ngày 28/11/2018 về tội cố ý gây thương tích

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẢO THẮNG, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 58/2018/HS-ST NGÀY 28/11/2018 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 28 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở tòa án nhân dân, huyện B, tỉnh Lào Cai xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 55/2018/TLST-HS ngày 15/11/2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 58/2018/QĐXXST-HS ngày 16/11/2018 đối với bị cáo: 

Ninh Văn T – Sinh ngày 10/01/1992 tại huyện V, tỉnh Hà Giang. Nơi cư trú: Thôn L, xã Đ, huyện V, tỉnh Hà Giang.

Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt N; Tôn giáo: Không; Giới tính: N

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 10/12.

Con ông: Ninh Quang H - Sinh năm: 1967 và bà Vi Thanh X - Sinh năm: 1970 (Tức Vi Thị X - Sinh năm 1969).

Có vợ: Tẩn Mai H - Sinh năm: 1994. Trú tại: Xã B, huyện B, tỉnh Lào Cai. Bị cáo có 01 con sinh năm 2015. Tiền án: Không.

Tiền sự: Không.

Nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu năm 2011 bị cáo bị Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang xử phạt 03 (Ba) năm tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 5 năm về tội cướp tài sản theo bản án số 58/2011/HSST ngày 03/11/2011. Ngày 26/12/2011 bị cáo đã thi hành xong khoản tiền án phí hình sự. Đến ngày 03/11/2017 bị cáo đã được xóa án tích.

Bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy, ngày 09/7/2018 bị Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Lào Cai áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại cơ sở cai nghiện ma túy số 1, tỉnh Lào Cai với thời hạn 12 tháng theo quyết định số30/2018/QĐ - TA. Thời hạn kể từ ngày 17/5/2018 đến ngày 26/7/2018 cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện B đã khởi tố vụ án khởi tố bị can và ra lệnh bắt bị cáo để tạm giam về tội cố ý gây thương tích.

Bị cáo bị bắt tạm giam giữ từ ngày 26/7/2018. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại nhà tạm giam giữ công an huyện B, tỉnh Lào Cai - Có mặt tại phiên toà.

Người bào chữa cho bị cáo: Ninh Văn T là bà Đỗ Thị Thu Ba - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Lào Cai.

Địa chỉ trụ sở: Số 075, đường Thanh Niên, phường Duyên Hải, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai - Có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Anh Bùi Duy P; Sinh ngày 12/7/2000

Nơi cư trú: Thôn A, xã S, huyện B, tỉnh Lào Cai - Có mặt tại phiên tòa.

Những người làm chứng: Anh Phạm Văn K; Phạm Văn N; Phạm Văn T; Nguyễn Tuấn A - Đều vắng mặt tại phiên tòa không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 05/5/2018 Ninh Văn T cùng bạn là Phạm Văn N - Sinh năm 1991 trú tại thôn Khe Mụ, xã Sơn Hà, huyện B, tỉnh Lào Cai, Phạm Văn T - Sinh năm 1992, Bùi Duy P - Sinh năm 2000 cùng trú tại Thôn A, xã S, huyện B và một số người bạn khác cùng dự sinh nhật của Phạm Văn N - Sinh năm 1999 tại quán hát Kraoke Ngân - K, thuộc thôn Khe Đền, xã Sơn Hà, huyện B, tỉnh Lào Cai. Trong đó có T và N là bạn của T, K là em trai của T. Quá trình dự sinh nhật của K, P có lấy bánh sinh nhật bôi vào người của K và T với mục đích chêu đùa. Do T không thích điều này nên T ra ngoài ngồi ở bàn uống nước và gọi P ra bắt P quỳ xin lỗi, P không đồng ý quỳ xin lỗi do vậy T đứng dậy đạp P một cái nhưng không trúng. Từ trong phòng hát nghe thấy tiếng cãi chửi nhau nên K cùng mọi người chạy ra can ngăn, thấy P đang gọi điện thoại, K nghi là P gọi người đến gây sự với anh trai mình nên nói với P " Hôm nay là ngày sinh nhật tao mày phá sinh nhật của tao à" P trả lời " Bây giờ mày thích thế nào ra nốt đây" sau đó K sông vào phía P và đạp P một cái nhưng không trúng. Sau khi va chạm với K, P đi xe máy của mình về hướng thị trấn Phố Lu còn mọi người tiếp tục hát. Sau khi quay lại phòng hát mọi người hát được khoảng 5 phút thì T và N đi ra ngoài hiên cửa trước đứng hút thuốc và nói chuyện với nhau. T có nói với N "Anh mượn chìa khóa phòng trọ của anh T để về nhà chơi đồ đi" ý là về sử dụng ma túy. N đồng ý nhận lời, Sau khi mượn được chìa khóa phòng trọ của T, T và N điều khiển xe máy biển kiểm soát 29T1-226.65 (Mượn của T) cùng nhau về phòng trọ tại thôn Tả Hà 2, xã Sơn Hà, huyện B. Tại đây N đã bỏ ma túy đá ra cùng T sử dụng. Trong thời gian sử dụng ma túy tại phòng trọ của T N có nhìn thấy và phát hiện ở gầm giường có 01 con dao mèo dài khoảng 70cm để trong 01 bao gỗ. Sau đó N đã lấy con dao này gài vào cạnh để chân dọc theo ống pô xe máy với mục đích quay lại quán hát, nếu P gọi người đến đánh nhau thì có dao để phòng thân. Sau đó N chở T quay lại quán hát, khi ngồi trên xe T đã nhìn thấy con dao của N nhưng T không hỏi N về việc đem theo dao để làm gì. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày T và N đến quán hát thì thấy P và K đang đứng cãi nhau tại khu vực vỉa hè trước cửa quán hát, trên tay K có cầm 01 con dao gọt hoa quả. T và N dựng xe ở bên kia đường đối diện quán hát rồi tiến lại gần vị chí K và P đang cãi nhau để can ngăn. Lúc này K giơ chân đạp một cái vào mạn sườn bên phải của P, nhưng P không ngã mà lùi lại cúi xuống phía sau nhặt một mẩu viên gạch tại gốc cây gần đó định ném K. T thấy thế đã quay lại vị trí để xe rút con dao mèo do N cài sẵn từ trước và sông thẳng vào chém P. Khi chém T đã cầm dao bằng tay phải chém P liên tiếp 03 phát cụ thể phát thứ nhất T cầm dao chém theo P thẳng đứng từ trên xuống, mũi dao trúng vào vùng cổ phía sau, dưới mang tai phải của P; Phát thứ hai T chém chếch từ trên xuống dưới, từ phải qua trái làm phần lưỡi ở gần mũi dao trúng vào khủy tay trái và mặt ngoài mạn sườn bên phải của P; Phát thứ 3 trong lúc P đang soay người sang trái để bỏ chạy, T cấm dao chém ngang từ phải qua trái, làm phần lưỡi ở gần mũi dao trúng ngang vùng ngực và 1/2 mặt trong cánh tay phải của P. Khi T vừa chém song nhát thứ ba thì T từ trong quán hát chạy ra can ngăn, T rằng được con dao của T rồi đem vứt ở bồn hoa bên trái của quán hát. Sau đó P bỏ chạy và được mọi người đưa đi cấp cứu tại bệnh viện đa khoa huyện B. Đối với Ninh Văn T sau khi gây án T đã nhờ Phạm Văn N chở đi khỏi hiện trường.

Ngay sau khi vụ vệc sảy ra cơ quan điều tra công an huyện B đã tiến hành khám nghiệm hiện trường thu giữ tại bồn hoa 01 con dao nhọn dạng dao mèo dài 71cm lưỡi bằng kim loại, chuôi dao làm bằng gỗ sơn màu vàng. Ngày 12/5/2018 Phạm Văn T giao nộp 01 vỏ bao dao bằng gỗ có kích thước 67cm, màu vàng, sung quanh chạy dọc bao gắn cố định 06 đai nhựa, phần mũi bao vút cong; Ngày 18/5/2018 Bùi Duy P giao nộp 01 áo phông màu đen có chiều dài 66 cm, rộng 41,5 cm có mác áo ghi dòng chữ GCCI trên áo có 02 vết rách có bờ mép sắc nhọn là chiếc áo mà anh P mặc khi bị T chém gây thương tích. Ngày 07/5/2018 Nguyễn Tuấn A giao nộp 01 xe máy Yamaha biển kiểm soat 29T1- 226.65 (Là xe anh Tuấn Anh cho Phạm Văn T mượn đi sinh nhật Phạm Văn N).Ngày 24/7/2018 cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện B đã khởi tố vụ án  khởi tố bị can và ra lệnh bắt bị can để tạm giam đối với Ninh Văn T về tội "Cố ý gây thương tích theo quy định tại Khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự.

Tại kết luận giám định về thương tích số 68/2018/TgT ngày 04/6/2018 của trung tâm pháp y tỉnh Lào Cai đối với Bùi Duy P đã kết luận: Tổn thương cơ thể tại thời điểm giám định là 36% (Ba mươi sáu phần trăm). Tuy nhiên Ninh Văn T không nhất trí với kết luận giám định trên và có yêu cầu trưng cầu giám định lại.

Tại kết luận giám định pháp y về thương tích (Giám định lại lần 1) số 80/2018/TgT ngày 11/7/2018của trung tâm pháp y tỉnh Lào Cai đã kết luận: Tổng tổn thương cơ thể của Bùi Duy P tại thời điểm giám định là 32% (Ba mươi hai phần trăm). Sau khi giám định lại T và P đều nhất trí không có ý kiến gì.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại anh Bùi Duy P yêu cầu bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường cho anh tổng số tiền chi phí gồm tiền viện phí: 13.535.000đ; Tiền mua thuốc điều trị ngoài: 7.365.000đ; Tiền thuê xe tác xi đi lại: 6.400.000đ; Tiên ăn uống ở viện 02 người trong thời gian nằm viện là 3.300.000đ; Tiền phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất: 12.000.000đ; Tiền thu nhập bị mất trong thời gian điều trị và hồi phục sức khỏe là 02 tháng là: 200.000 x 60 ngày = 12.000.000đ; Thu nhập thực tế 01 người chăm sóc trong thời gian điều trị và hồi phục sức khỏe là 02 tháng: 200.000đ x 60 ngày =12.000.000đ; Tiền tổn thất về tinh thần: 83.400.000đ. Tổng cộng các khoản là: 150.000.000đ (Một trăm năm mươi triệu đồng).

Bị cáo Ninh Văn T không nhất trí bồi thường theo yêu cầu của bị Hại Bùi Duy P và cho rằng yêu cầu của người bị hại là quá cao nên đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.

Về vật chứng: Cơ quan điều tra đã thu giữ và trả lại 01 xe mô tô loại Yamaha biển kiểm soát 29T1- 226.65 là chiếc xe Phạm Văn N dùng chở T đi bỏ trốn sau khi gây thương tích. Quá trình điều tra xác định chiếc xe trên thuộc sở hữu của anh Nguyễn Tuấn A. Việc Nguyễn Tuấn A cho T mượn và T cho N mượn chở T đi bỏ trốn anh Nguyễn Tuấn A không biết và cũng không liên quan gì đến việc bị cáo Ninh Văn T gây thương tích cho Bùi Duy P. Nên cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe trên cho Nguyễn Tuấn A theo quyết định sử lý vật chứng số 06 ngày 29/10/2018. Nên không đè cập xử lý.

Đối với 01 con dao gọt hoa quả mà Phạm Văn N cầm khi cãi nhau với P, K lấy ở quan Ngân - K sau đó bị anh Lê Quý Ngọc giật của K ném về khu vực vỉahè gần đường tỉnh lộ 152 và 01 mẩu gạch mà P dùng định ném K. Cơ quan điều tra đã truy tìm vật chứng nhưng không thu hồi được. Nên không đề cập xử lý.

 Đối với 01 con dao dạng mèo dài 71 cm, lưỡi dao làm bằng kim loại hai mặt mài trắng có chiều dài 50 cm, sống dao dầy 0,3 cm, lưỡi dao có phần rộng nhất là 4,3 cm, đầu mũi dao nhọn, chuôi dao làm bằng gỗ sơn màu vàng; 01 vỏ bao dao bằng gỗ có kích thước 67 cm, màu vàng, sung quanh chạy dọc bao gắn cố định 06 đai nhựa, phần mũi dao vút cong; 01 chiếc áo phông màu đen có ghi dòng chữ GUCCI trên áo có 02 vết rách. Hiện đang lưu giữ tại chi cục thi hành án dân sự huyện B.

Cáo trạng số 48/CT-VKS ngày 13/11/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Lào Cai truy tố bị cáo Ninh Văn T về tội “ Cố ý gây thương tích” theo Điểm c Khoản 3 Điều 134 BLHS.

Tại phiên toà hôm nay đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Lào Cai giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Ninh Văn T và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm c Khoản 3 Điều 134; Điểm s Khoản 1 Điều 51 BLHS. Tuyên bố bị cáo Ninh Văn T phạm tội "Cố ý gây thương tích" và xử phạt bị cáo Ninh Văn T từ 05 (Năm) năm 06 (Sáu) tháng đến 06 (Sáu) năm tù.

Về trách nhiệm dân sự: Viện kiểm sát đề nghị áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 584, Điều 590 Bộ luật dân sự buộc bị cáo Ninh Văn T phải có trách nhiệm bồi thường cho người bị hại những chi phí hợp lý cho việc điều trị và hồi phục sức khỏe và tiền tổn thất về tinh thần là 20 lần mức lương tối thiểu do nhà nước quy định với tổng chi phí thiệt hại là từ 46 đến 50 triệu đồng.

Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm a Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a, c Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên tịch thu: 01 con dao dạng mèo dài 71 cm, lưỡi dao làm bằng kim loại, hai mặt mài trắng có chiều dài 50 cm, sống dao dầy 0,3 cm, lưỡi dao có phần rộng nhất là 4,3 cm, đầu mũi dao nhọn, chuôi dao làm bằng gỗ sn màu vàng; 01 vỏ bao dao bằng gỗ có kích thước 67 cm, màu vàng, sung quanh chạy dọc bao gắn cố định 06 đai nhựa, phần mũi dao vút cong; 01 chiếc áo phông màu đen có ghi dòng chữ GUCCI trên áo có 02 vết rách. Đây là những công cụ bị cáo thực hiện hành vi phạm tội và là tài sản không còn giá trị sử dụng. Hiện đang lưu giữ tại chi cục thi hành án dân sự huyện B, tỉnh Lào Cai để tiêu hủy.

Tuyên án phí và quyền kháng cáo cho bị cáo, người bị hại theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa hôm nay người bào chữa cho bị cáo Ninh Văn T trình bầy nhất trí với tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố. Sau khi phân tích đánh giá mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm c Khoản 3 Điều 134; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Ninh Văn T 5 (Năm) năm 06 (Sau) tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Nhất trí với quan điểm của Viện kiểm sát là bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường cho anh Bùi Duy P tổng số tiền là: từ 46 đến 50 triệu đồng.

Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử xử lý theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về thủ tục tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện B, tỉnh Lào Cai, Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Lào Cai, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp và đúng với trình tự thủ tục tố tụng quy định.

[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Ninh Văn T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân huyện B đã nêu. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và phù hợp với lời khai người bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 05/5/2018 Ninh Văn T cùng bạn là Phạm Văn N, Phạm Văn T, Bùi Duy P và một số người bạn khác cùng dự sinh nhật của Phạm Văn N - Sinh năm 1999 tại quán hát Kraoke Ngân - K, thuộc thôn Khe Đền, xã Sơn Hà, huyện B, tỉnh Lào Cai. Quá trình dự sinh nhật của K, P có lấy bánh sinh nhật bôi vào người của K và T với mục đích chêu đùa. Do T không thích điều này nên T ra ngoài ngồi ở bàn uống nước và gọi P ra bắt P quỳ xin lỗi, P không đồng ý quỳ xin lỗi do vậy T đứng dậy đạp P một cái nhưng không trúng. Từ trong phòng hát nghe thấy tiếng cãi chửi nhau nên K cùng mọi người chạy ra can ngăn, thấy P đang gọi điện thoại, K nghi P gọi người đến gây sự với anh trai mình nên nói với P " Hôm nay là ngày sinh nhật tao mày phá sinh nhật của tao à" P trả lời " Bây giờ mày thích thế nào ra nốt đây" sau đó K liền đạp P một cái nhưng không trúng. Ngay sau đó P đi xe máy của mình về hướng thị trấn Phố Lu còn mọi người tiếp tục hát. Sau khi hát được khoảng 5 phút T và N đi ra ngoài hiên cửa trước đứng hút thuốc và nói chuyện với nhau, T có nói với N "Anh mượn chìa khóa phòng trọ của anh T để về nhà chơi đồ đi" ý là về sử dụng ma túy. N đồng ý nhận lời, Sau khi mượn được chìa khóa phòng của T, T và N điều khiển xe máy biển kiểm soát 29T1-226.65 (Mượn của T) cùng nhau về phòng trọ tại thôn Tả Hà 2, xã Sơn Hà , huyện B. Tại đây N đã bỏ ma túy đá cùng T sử dụng. Trong thời gian sử dụng ma túy tại phòng trọ của T, N có nhìn thấy và phát hiện ở gầm giường có 01 con dao mèo dài khoảng 70cm để trong 01 bao gỗ. Sau đó N đã lấy con dao này gài vào cạnh để chân dọc theo ống pô xe máy với mục đích quay lại quán hát, nếu P gọi người đến đánh nhau thì có dao để phòng thân. Sau đó N chở T quay lại quán hát, khi ngồi trên xe T đã nhìn thấy con dao của N nhưng T không hỏi N đem theo dao để làm gì. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày T và N đến quán hát thì thấy P và K đang đứng cãi nhau tại khu vực vỉa hè trước cửa quán hát, trên tay K có cầm 01 con dao gọt hoa quả. T và N dựng xe ở bên kia đường đối diện quán hát rồi tiến lại gần vị chí K và P đang cãi nhau để can ngăn, lúc này K giơ chân đạp một cái vào mạn sườn bên phải của P, nhưng P không ngã mà lùi lại cúi xuống phía sau nhặt một mẩu viên gạch tại gốc cây gần đó định ném K. T nhìn thấy thế đã quay lại vị trí để xe rút con dao mèo do N cài sẵn từ trước sông vào chém P. T đã cầm dao bằng tay phải chém P liên tiếp 03 phát làm Bùi Duy P bị thương và được mọi người đưa đi cấp cứu và điều trị tại bệnh viện đa khoa huyện B, bệnh viện đa khoa tỉnh Lào Cai từ ngày 05/5/2018 đến ngày 16/5/2018 thì ra viện.

Tại kết luận giám định pháp y về thương tích (Giám định lại lần 1) số 80/2018/TgT ngày 11/7/2018 của trung tâm pháp y tỉnh Lào Cai đã kết luận: Mổ nội soi thăm dò ổ bụng mức tổn hại sức khỏe 21% (Hai mươi mốt phần trăm); Mẻ vỏ xương 1/3 giữa xương trụ tay trái, mức tổn hại sức khỏe là 02 % (Hai phần trăm); 06 sẹo tại cổ phải, ngực phải, phía trước cánh tay phải, phía sau cẳng tay trái, mào chậu phải, trên rốn; Kích thước nhỏ, trung bình và lớn mức tổn hại sức khỏe là 08% (Tám phần trăm); Đứt gân cơ và bố mạnhgian cốt tay trái, hạn chế duỗi cỏ tay và ngón I tay trái mức tổn hại sức khỏe 04% (Bốn phần trăm).

Tổng tổn thương cơ thể của Bùi Duy P tại thời điểm giám định là 32% (Ba mươi hai phần trăm).

Quá trình điều tra Ninh Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Do vậy có đủ cơ sở kết luận bị cáo Ninh Văn T phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo Điểm c Khoản 3 Điều 134 Bộ luật Hình sự như kết luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an ở địa P, gây bức súc trong quần chúng nhân dân. Xâm phạm trực tiếp

đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hiểu biết nhất định về pháp luật, chỉ vì khi thấy Bùi Duy P giơ mẩu gạch định đánh em trai của bạn mình nên đã vô cớ dùng dao là "Hung khí nguy hiểm" chém liên tiếp nhiều nhát vào Bùi Duy P gây thiệt hại về sức khỏe cho Bùi Duy P là 32% sức khỏe.

Mặt khác bị cáo có nhân thân xấu năm 2011 bị cáo bị Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang xử phạt 03 (Ba) năm tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 5 năm về tội cướp tài sản theo bản án số 58/2011/HSST ngày 03/11/2011. Tính đến ngày 03/11/2017 bị cáo đã được xóa án tích.

Bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy, ngày 09/7/2018 bị Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Lào Cai áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại cơ sở cai nghiện ma túy số 1, tỉnh Lào Cai với thời hạn 12 tháng theo quyết định số 30/2018/QĐ - TA. Thời hạn chấp hành quyết định kể từ ngày 17/5/2018, đến ngày 26/7/2018 cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện B đã khởi tố vụ án khởi tố bị can và ra lệnh bắt bị cáo để tạm giam về tội cố ý gây thương tích.

Do vậy Đối với bị cáo Ninh Văn T Hội đồng xét xử cần phải lên một mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian dài, mới đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội và phòng ngừa chung.

[3]Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Bị cáo Ninh Văn T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

 [4] Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Bị cáo có 01 tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đó là " Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải". Do vậy khi lượng hình Hội đồng xét xử cũng cần cân nhắc xem xét để giảm nhẹ phần nào trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

Liên quan trong vụ án còn có Phạm Văn N là người đã mang theo 01 con dao mèo cài ở xe biển kiểm soát 29T1 - 226.65 và đã sử dụng xe máy chở bị cáo quay lại quán hát. Việc N lấy dao và cài dao vào xe máy là do N tự ý làm và không có bàn bạc gì với bị cáo về việc gây thương tích đối với anh Bùi Duy P. Mặt khác bị cáo sử dụng dao để gây thương tích cho anh P diễn ra một cách độc lập không có sự bàn bạc hoặc trao đổi gì với N. Do vậy không đủ cơ sở để truy cứu trách nhiện hình sự đối với Phạm Văn N với vai trò đồng phạm giúp sức trong vụ án là phù hợp và có căn cứ. Nên Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.

Đối với Phạm Văn N là người trực tiếp xô xát với Bùi Duy P trước khi sảy ra vụ án. Trong quá trình xô xát K có cầm 01 con dao gọt hoa quả nhưng K không dùng con dao này để tấn công và gây thương tích cho P. K chỉ thừa nhận có đạp P 01 cái vào mạn sườn phải nhưng không gây thương tích cho P. Mặt khác anh P từ chối giám định và không yêu cầu xử lý đối với K. Việc bị cáo dùng dao gây thương tích cho Bùi Duy P thì K không bàn bạc rủ rê súi dục đối với bị cáo. Do vậy cơ quan điều tra không đề cập xử lý trách nhiệm hình sự đối với Phạm Văn N là phù hợp. Nên Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.

Đối với Phạm Văn T là bạn của bị cáo Ninh Văn T. Quá trình điều tra xác định T không bàn bạc rủ rê súi dục T thực hiện hành vi phạm tội. Ngoài ra T còn xác định con dao mà bị cáo dùng để gây thương tích cho P là dao của T được sử dụng trong sinh hoạt hàng ngày. Việc N tự ý lấy dao thì T không biết và không liên quan gì đến việc bị cáo gây thương tích cho Bùi Duy P. Do vậy cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với Phạm Văn T là phù hợp. Nên Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.

Quá trình điều tra Ninh Văn T và Phạm Văn N còn khai đã 02 lần sử dụng ma túy tại phòng trọ của T thuê vào chiều ngày 04 và tối ngày 05/5/2018. Xét thấy ngoài lời khai của T và N ra cơ quan điều tra không thu giữ được vật chứng gì có liên quan. Nên không đủ căn cứ để xử lý T và N về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Do vậy Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa hôm nay bị hại là anh Bùi Duy P yêu cầu bị cáo phải bồi thường cho anh tổng số tiền gồm tiền viện phí: Tiền mua thuốc ngoài để điều trị vết thương; Tiền thuê xe tác xi đi lại trong thời gian nằm viện; Tiên ăn uống ở viện 02 người trong thời gian nằm viện; Tiền bồi dưỡng hồi phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất; Tiền thu nhập bị mất; Tiền thu nhập của 01 người chăm sóc trong thời gian điều trị và hồi phục scs khỏe; Tiền tổn thất về tinh thần. Tổng cộng các khoản là: 150.000.000đ (Một trăm năm mươi triệu đồng).

Bị cáo Ninh Văn T không nhất trí bồi thường theo yêu cầu của bị hại Bùi Duy P và cho rằng yêu cầu của người bị hại là quá cao nên đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.

Xét yêu cầu của anh Bùi Duy P người bị hại trong vụ án yêu cầu bị cáo phải bổi thường tổng số tiền là 150.000.000đ là quá cao so với thực tế. Do vậy hội đồng xét xử chỉ chấp nhận một phần những chi phí hợp lý của anh Bùi Duy P cụ thể các khoản chi phí sau:

- Tiền thuốc men viện phí tại bệnh viện đa khoa huyện B, thành phố Lào Cai và bệnh viện đa khoa tỉnh Lào Cai là: 13.534.454 đ (Mười ba triệu, năm trăm ba mươi tư nghìn, bốn trăm năm mươi tư đồng);

- Tiền tàu xe đi lại: 2.000.000đ (Hai triệu đồng);

- Tiền bồi dưỡng trong thời gian điều trị và hồi phục sức khỏe là 02 tháng (60 ngày) x 100.000đ/ngày = 6.000.000đ (Sáu triệu đồng);

- Tiền thu nhập mất đi trong thời gian điều trị và hồi phục sức khỏe là 02 tháng (60 ngày) x 200.000đ/ngày = 12.000.000đ (Mười hai triệu đồng);

- Tiền công một người chăm sóc trong thời gian điều trị tại bệnh viện từ 05/5/2018 đến 16/5/2018 là 12 ngày x 200.000đ/ngày = 2.400.000đ (Hai triệu bốn trăm nghìn đồng);

- Tiền tổn thất về tinh thần do bị chém là 15 tháng lương tối thiểu theo quy định của nhà nước cụ thể là: 1.390.000đ x 15 tháng = 20.850.000đ (Hai mươi triệu tám trăm năm mươi nghìn đồng).

Tổng cộng các khoản là: 56.784.454đ (Năm mươi sáu triệu, bẩy trăm tám mươi tư nghìn, bốn trăm năm mươi tư đồng) là có căn cứ và phù hợp với các quy định của pháp luật.

[6]Về vật chứng: Cơ quan điều tra đã thu giữ và trả lại 01 xe mô tô loại Yamaha biển kiểm soát 29T1- 226.65 là chiếc xe Phạm Văn N dùng chở T đi bỏ trốn sau khi gây thương tích. Quá trình điều tra xác định chiếc xe trên thuộc sở hữu của anh Nguyễn Tuấn A. Việc Nguyễn Tuấn A cho T Mượn và T cho N mượn chở T đi bỏ trốn anh Nguyễn Tuấn A không biết và cũng không liên quan gì đến việc bị cáo Ninh Văn T gây thương tích cho Bùi Duy P. Nên cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe trên cho Nguyễn Tuấn A theo quyết định sử lý vật chứng số 06 ngày 29/10/2018. Hội đồng xét xử xét thấy là phù hợp nên không đề cập xử lý.

Đối với 01 con dao gọt hoa quả mà K dùng khi cãi nhau với P, K lấy ở quán Ngân K sau đó bị anh Lê Quý Ngọc giật của K ném về khu vực vỉa hè gần đường tỉnh lộ 152 và 01 mẩu gạch mà P dùng định ném K. Cơ quan điều tra đã truy tìm vật chứng nhưng không thu hồi được. Nên Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.

Đối với 01 con dao dạng mèo dài 71 cm, lưỡi dao làm bằng kim loại hai mặt mài trắng có chiều dài 50 cm, sống dao dầy 0,3 cm, lưỡi dao có phần rộng nhất là 4,3 cm, đầu mũi dao nhọn, chuôi dao làm bằng gỗ sơn màu vàng; 01 vỏ bao dao bằng gỗ có kích thước 67 cm, màu vàng, sung quanh chạy dọc bao gắn cố định 06 đai nhựa, phần mũi dao vút cong; 01 chiếc áo phông màu đen có ghi

dòng chữ GUCCI trên áo có 02 vết rách. Hiện đang lưu giữ tại chi cục thi hành án dân sự huyện B. Đây là vật chứng trong vụ án và là tài sản không còn giá trị sử dụng nên Hội đồng xét xử cần áp dụng Điểm a Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a, c Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên tịch thu để tiêu hủy.

[7] Về án phí: Bị cáo Ninh Văn T phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Ninh Văn T phạm tội “Cố ý gây thương tích”

1. Về hình phạt:

Áp dụng Điểm c Khoản 3 Điều 134; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Ninh Văn T 05 (Năm) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 26/7/2018.

2. Về trách nhiệm dân sự:

Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; Khoản 1 Điều 584, Điều 590 Bộ luật dân sự:

Xử buộc bị cáo Ninh Văn T phải có trách nhiệm bồi thường cho anh Bùi Duy P tổng số tiền là: 56.784.454đ (Năm mươi sáu triệu, bẩy trăm tám mươi tư nghìn, bốn trăm năm mươi tư đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong, thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi xuất chậm trả do ngân hàng nhà nước quy định tương ứng với thời gian chậm thi hành án theo quy định tại Điều 357 của Bộ luật dân sự.

3. Về vật chứng: Áp dụng Điểm a Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a, c Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên tich thu:

- 01 con dao dạng mèo dài 71 cm, lưỡi dao làm bằng kim loại hai mặt được mài trắng có chiều dài 50 cm, sống dao dầy 0,3 cm, lưỡi dao có phần rộng nhất là 4,3 cm, đầu mũi dao nhọn, chuôi dao làm bằng gỗ sơn màu vàng vòng đai khâu dao làm bằng kim loại màu vàng rộng 1,5 cm, đường kính 3 cm, giữa chuôi dao và lưỡi dao được đóng 01 đai kim loại hình bầu dục mầu vàng dầy 0,2 cm, kích thước phần rộng nhất 7,3 cm, phần hẹp nhất 5,5 cm;

- 01 vỏ bao dao bằng gỗ có kích thước 67 cm, màu vàng, xung quanh chạy dọc bao gắn cố định 06 đai nhựa, phần mũi dao vút cong;

- 01 chiếc áo phông màu đen loại áo phông ngắn tay có ghi dòng chữ GUCCI Ma de in Italy, cỡ L, ngực áo bên phải có lô gô thêu hình con vật, bên dưới có dòng chữ Gcci animalium, phía dưới cách đường chỉ nách bên trái 13 cm, cách cổ áo 22,5 cm, cách gấu áo 38 cm có 01 vết rách vải, bờ mép sắc gọn dài 05 cm hướng từ trên xuống dưới; Gần gấu áo bên trái có 01 vết rách vải dài 11 cm, vết rách không thẳng, một đầu phía trên cách đường chỉ bên trái 7,5 cm, cách gấu áo 5,5 cm có bờ mép sắc gọn, hướng từ trên xuống dưới, từ phải sang trái, áo cũ đã qua sử dụng. Để tiêu hủy.

2. Về án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Ninh Văn T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí Hình sự sơ thẩm và 2.839.222đ( Hai triệu, tám trăm ba mươi chín nghìn, hai trăm hai mươi hai đồng) tiền án phí Dân sự sơ thẩm. Tổng cộng hai khoản là 3.039.222đ (Ba triệu, không trăm ba mươi chín nghìn, hai trăm hai mươi hai đồng).

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Khoản 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.”

Án xử công khai sơ thẩm báo cho bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

822
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 58/2018/HS-ST ngày 28/11/2018 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:58/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bảo Thắng - Lào Cai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:28/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về