Bản án 22/2018/HNGĐ-ST ngày 16/01/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VỊ THANH, TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 22/2018/HNGĐ-ST NGÀY 16/01/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 16 tháng 01 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vị Thanh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 209/2017/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 10 năm 2017 về tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 128/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 12 năm 2017 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị C.

Địa chỉ cư trú: số 919/31/10, đường Trần Hưng Đạo, khu vực 2, phường VII, thành  phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang. Có mặt.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn L.

Địa chỉ cư trú: khu vực 2, phường VII, thành phố Vị Thanh, tỉnh HậuGiang. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 17/10/2017 và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn bà Nguyễn Thị C trình bày: Bà Nguyễn Thị C và ông Nguyễn Văn L kết hôn vào năm 2014, đã tiến hành đi đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Thời gian đầu hôn nhân vợ chồng chung sống hạnh phúc, nhưng từ đầu năm 2016 vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do ông Liệt ham mê cờ bạc, gây ra nợ nần rồi bỏ nhà đi từ tháng 5/2016 cho đến nay, cũng từ đó vợ chồng đã sống ly thân. Nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng đến mức không thể hàn gắn được nữa, nên bà Cẩm khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Liệt, yêu cầu được nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu ông Liệt cấp dưỡng nuôi con, về tài sản chung và về nợ chung: không có, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với ông Nguyễn Văn L tính từ lúc Tòa án thụ lý vụ án đến khi xét xử chưa một lần chấp hành theo giấy triệu tập của Tòa án và cũng chưa thể hiện ý kiến của mình bằng văn bản về tranh chấp trong vụ án.Những nội dung mà các đương sự đã thống  nhất thỏa thuận được: không. Những nội dung mà các đương sự không thống nhất thỏa thuận được: bà Nguyễn Thị C yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Văn L, yêu cầu được nuôidưỡng  con chung, ông Nguyễn Văn L chưa thể hiện ý kiến.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Bà Nguyễn Thị C khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Nguyễn Văn L và yêu cầu được nuôi dưỡng con chung. Do đó đây là tranh chấp ly hôn, nuôi con, nên theo quy định tại khoản 1 Điều 28 và điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang. Đối với ông Nguyễn Văn L dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt ông Nguyễn Văn L.

[2] Về nội dung tranh chấp: Bà Nguyễn Thị C và ông Nguyễn Văn L kết hôn vào năm 2014, hiện tại  ông, bà đã hoàn thành thủ tục đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật, nên quan hệ hôn nhân của bà Cẩm và ông Liệt được công nhận là hợp pháp. Xét yêu cầu xin ly hôn của bà Cẩm, Hội đồng xét xử thấy rằng: quá trình chung sống trong thời kỳ hôn nhân do ông Liệt ham mê cờ bạc nên gây ra nợ nần, khiến cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, nên từ tháng 5 năm 2016 cho đến nay vợ chồng đã ly thân, không còn sống chung với nhau nữa. Điều 19 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác”. Đối chiếu quy định nêu trên với trường hợp của bà Cẩm và ông Liệt cho thấy bà Cẩm và ông Liệt đã không còn yêu thương nhau nữa, biểu hiện qua việc vợ chồng đã ly thân, không còn sống chung gần 01 năm nay, nên vợ chồng không thể quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau trong việc thực hiện các công việc hàng ngày. Đối với ông Nguyễn Văn L dù được Tòa án thông báo về việc bà Nguyễn Thị C khởi kiện xin ly hôn, nhưng ông Liệt vẫn không một lần đến Tòa án để trình bày ý kiến của mình, cũng như có phương án khả thi để vợ chồng hàn gắn quan hệ hôn nhân, nên xem như ông Liệt đã bỏ mặc, không quan tâm đến quan hệ hôn nhân của mình nữa. Những hành vi nêu trên của ông Liệt là hành vi vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng, hậu quả là làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, tại phiên tòa bà Cẩm cương quyết yêu cầu được ly hôn. Căn cứ vào Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử giải quyết cho bà Cẩm được ly hôn với ông Liệt.

[3] Xét yêu cầu được nuôi dưỡng  con chung của bà Nguyễn Thị C, Hội đồng xét xử thấy rằng: quá trình chung sống bà Cẩm và ông Liệt có 01 con chung tên Nguyễn Gia Quy, sinh ngày 15/4/2015, từ trước đến nay cháu Quy sống chung với mẹ, cháu Quy hiện nay vẫn chưa tròn 36 tháng tuổi. Mặt khác, bà Cẩm hiện nay có nghề nghiệp và thu nhập tương đối ổn định, có khả năng nuôi dưỡng cháu Quy. Sau khi cân nhắc việc đảm bảo quyền lợi của cháu Nguyễn Gia Quy sau khi cha mẹ ly hôn, về các mặt vật chất, tình cảm và giáo dục cộng với tránh làm xáo trộn cuộc sống của cháu, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình quyết định giao cháu Nguyễn Gia Quy cho bà Nguyễn Thị C được quyền trực tiếp nuôi dưỡng sau khi ly hôn. Ông Nguyễn Văn L chưa phải có nghĩa vụ cấp dưỡng phí tổn nuôi con chung do bà Cẩm chưa yêu cầu.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: bà Cẩm trình bày không có, nên khôngtranh chấp,  vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét hai vấn đề nêu trên.

[5] Nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ thẩm:

Căn cứ vào khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bà Nguyễn Thị C phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, theo mức án phí không có giá ngạch với số tiền là 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28 và điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015;

Căn cứ vào các Điều 19, 56 và 81 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là bà Nguyễn Thị C. Bà Nguyễn Thị C được ly hôn với ông Nguyễn Văn L.

2. Sau khi ly hôn, bà Nguyễn Thị C được quyền trực tiếp nuôi con chung tên Nguyễn Gia Quy, sinh ngày 15/4/2015. Ông Nguyễn Văn L chưa phải có nghĩa vụ cấp dưỡng phí tổn nuôi con chung do bà Nguyễn Thị C chưa yêu cầu. Ông Nguyễn Văn L có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung không ai được cản trở.

3. Về án phí: Bà Nguyễn Thị C phải chịu tiền án phí sơ thẩm là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng, được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu tiền số 0012539 ngày 26/10/2017 của Cơ quan Thi hành án dân sự thành phố Vị Thanh.

4. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2018/HNGĐ-ST ngày 16/01/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:22/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vị Thanh - Hậu Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về