Bản án 218/2019/HS-ST ngày 17/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ T, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 218/2019/HS-ST NGÀY 17/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Vào ngày 17 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 203/2019/TLST- HS ngày 14 tháng 8 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 206/2019/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 8 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 45/2019/QĐ-HPT ngày 10/9/2019 đối với bị cáo:

Trần Hữu Đ, sinh năm 1994 tại tỉnh Hà Tĩnh; nơi cư trú: Xóm 3, xã T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Kinh doanh; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Hữu T, sinh năm 1964 và bà Lê Thị H, sinh năm 1964; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/3/2019 cho đến nay. Có mặt

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Phạm Hùng Q, sinh năm 1977; trú tại: Khu phố 7, phường T, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận. Vắng mặt.

- Người làm chứng: Dương Quốc B. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 01 giờ 00 phút ngày 05/3/2019 Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thị xã T phối hợp cùng Công an phường B tuần tra khi đến khu vực cây xăng Hoàng Phương thuộc khu phố B, phường B, thị xã T, tỉnh Bình Dương thì phát hiện Trần Hữu Đ và Dương Quốc B đang ngồi trên xe mô tô biển số 85B1-541.58 có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra trong túi xách B đang đeo trên người có bộ sử dụng ma túy và một cái hũ bên trong có 01 gói nylon hàn kín và 01 túi nylon miệng kéo dính bên trong đều chứa tinh thể màu trắng nên lực lượng Công an bắt quả tang cùng tang vật.

Vật chứng thu giữ trong vụ án gồm: 01 gói ny lon hàn kín chứa chất tinh thể màu trắng; 01 túi nylon miệng dán kín bên trong chứa tinh thể màu trắng; 01 bộ sử dụng ma túy; 01 xe mô tô biển số 85B1-541.58 số khung 0610GY288572, số máy G3D4E302687.

Quá trình điều tra Đ khai nhận: Vào khoảng 05 giờ ngày 04/3/2019 Đ gặp T và H tại một nhà nghỉ tại quận G, Thành phố Hồ Chí Minh. T đưa ma túy cho Đ, T, H cùng sử dụng. Sau khi sử dụng xong Đ ra về thì T cho Đ 02 gói ma túy cùng 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá Đ bỏ trong túi xách.

Đối với Dương Quốc B hoàn toàn không biết Trần Hữu Đ giấu số ma túy trên ở trong túi xách nên cơ quan điều tra không xem xét xử lý. Tuy nhiên do B có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nên Công an thị xã T đã ra Quyết định xử phạt hành chính đối với B.

Tại Bản kết luận giám định số 213/MT-PC09 ngày 12/3/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận:

+ 01 (một) gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng có khối lượng/ trọng lượng 0, 4737 gam và 01 túi nylon miệng kéo dính bên trong chứa tinh thể màu trắng có khối lượng/ trọng lượng 0, 1185gam, đều là ma túy, loại Methamphetamine.

Bản Cáo trạng số 221/CT-VKS-TA ngày 13/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Trần Hữu Đ về tội ‘‘Tàng trữ trái phép chất ma túy’’ theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa Kiểm sát viên tham gia phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Trần Hữu Đ về tội danh và điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng, đánh giá các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo Trần Hữu Đ và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Trần Hữu Đ mức hình phạt từ 01 năm tù đến 01 năm 06 tháng tù.

Đối với đối tượng T và H là người cho ma túy Đ cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã T đã ra thông báo truy tìm gửi Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận G, Thành phố Hồ Chí Minh xử lý.

Về xử lý vật chứng:

- Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy 01 bì thư niêm phong, bên ngoài ghi số vụ 213/ PC09 (mẫu vật hoàn lại sau giám định); 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy.

- Đối với xe mô tô biển số 85B1-541.58 số khung 0610GY288572, số máy G3D4E302687 thu giữ của Đ, quá trình điều tra Đ khai mượn của Nguyễn Phạm Hùng Q. Qua điều tra xác định xe trên là của ông Nguyễn Phạm Hùng Q đứng tên giấy đăng ký xe, ông Q không biết Đ mượn xe dùng làm phương tiện phạm tội nên Cơ quan điều tra đã trả lại xe mô tô cho ông Q.

Tại phiên tòa: Bị cáo Trần Hữu Đ khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên, không có ý kiến gì về nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An truy tố, không có ý kiến tranh luận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, cán bộ điều tra, Kiểm sát viên đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không khiếu nại, tố cáo về các hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Trần Hữu Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo trước Tòa. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ và lời khai của người làm chứng, bản kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định:

Vào khoảng 01 giờ 00 phút ngày 05/3/2019, tại cây xăng Hoàng Phương thuộc khu phố B, phường B, thị xã T, tỉnh Bình Dương, Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thị xã T phối hợp cùng Công an phường B bắt quả tang bị cáo Trần Hữu Đ về hành vi Tàng trữ trái phép 0,5922 gam chất ma túy, loại Methamphetamine.

Hành vi của bị cáo Trần Hữu Đ đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Do đó, bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T truy tố bị cáo Trần Hữu Đ về tội danh và khung hình phạt nêu trên là có căn cứ, đúng người và đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo Trần Hữu Đ là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất gây nghiện của Nhà nước, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bản thân bị cáo là người đã thành niên, đồng thời là người nghiện ma túy biết được tác hại của ma túy sẽ dễ tiến gần đến tội phạm và hiểm họa bệnh tật, bị cáo nhận thức được tính nguy hiểm, trái pháp luật hình sự do hành vi mình thực hiện, nhưng vì muốn có ma túy sử dụng nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội bất chấp hậu quả và pháp luật, do đó cần có mức hình phạt tương xứng với hành vi của bị cáo để có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, thể hiện thái độ ăn năn hối cải nên bị cáo được xem xét áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Trần Hữu Đ mức hình phạt từ 01 năm tù đến 01 năm 06 tháng tù là phù hợp nên được chấp nhận.

[5] Về xử lý vật chứng:

+ Đối với 01 bì thư niêm phong, bên ngoài ghi số vụ 213/ PC09 (mẫu vật hoàn lại sau giám định) tổng khối lượng 0,5165 gam Methamphetamine và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy là tang vật của vụ án cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 xe mô tô biển số 85B1-541.58, số khung 0610GY288572, số máy G3D4E302687 thu giữ của bị cáo Trần Hữu Đ, quá trình điều tra xác định xe này do ông Nguyễn Phạm Hùng Q là người đứng tên đăng ký chủ sở hữu. Ông Q khai nhận cho Đ mượn xe để đi công việc, ông Q không biết Đ sử dụng xe làm phương tiện phạm tội. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T đã trả lại xe cho ông Q là có căn cứ. Ông Q không yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Đối với đối tượng T và H là người đưa ma túy cho bị cáo Đ hiện nay chưa xác định được nhân thân lai lịch, khi nào xác định được sẽ xử lý sau.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

+ Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

+ Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

+ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, 1. Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Trần Hữu Đ phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Xử phạt bị cáo Trần Hữu Đ 01 (một) năm 04 (bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 05/3/2019.

2. Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 01 bì thư niêm phong, bên ngoài ghi số vụ 213/ PC09 (mẫu vật hoàn lại sau giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương); 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/8/2019 giữa Công an thị xã Thuận An và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã T).

3. Về án phí: Bị cáo Trần Hữu Đ phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 218/2019/HS-ST ngày 17/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:218/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về