Bản án 217/2019/HSST ngày 06/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy 

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N, TỈNH NAM ĐỊNH 

BẢN ÁN 217/2019/HSST NGÀY 06/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY 

Ngày 06 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 222/2019/TLST-HS ngày 19 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 222/2019/QĐ-HSST ngày 24-7-2019 đối với bị cáo:

Vũ Đức D, sinh ngày 19-10-2001 tại tỉnh Nam Định; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú: Số nhà 15/37 T, phường C, thành phố N, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Đức T và bà Phùng Thị T; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 17-5-2019 sau đó chuyển tạm giam đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Nam Định; bị cáo có mặt tại phiên toà.

- Người đại diện hợp pháp cho bị cáo: Bà Phùng Thị T (Mẹ bị cáo); nơi cư trú: Số nhà 15/37 Thủy Cơ I, phường Cửa Nam, thành phố N, tỉnh Nam Định (Có mặt tại phiên tòa).

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Bùi Tố Q - Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Nam Định (Có mặt tại phiên tòa).

Người làm chứng: Anh Nguyễn Minh Đ và anh Nguyễn Thanh T (Vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 22 giờ 30 phút ngày 16-5-2019, Tổ công tác Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Nam Định làm nhiệm vụ tại khu vực trước cửa nhà nghỉ Trang M, đường V, xã M, thành phố N phát hiện Vũ Đức D đang ngồi trên xe máy biển kiểm soát K2-9744 một mình có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành kiểm tra. D đã tự giác giao nộp từ trong túi quần đùi bên trái 02 túi nhỏ ni lông màu trắng và 01 viên nén hình huy hiệu màu xanh trên bề mặt có in chữ NFL. Tổ công tác đã thu giữ, mở kiểm tra bên trong 02 túi ni lông màu trắng đều chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng (D khai là 2 túi ma túy Ketamine và 01 viên ma túy tổng hợp của D). Tổ công tác đã tiến hành niêm phong vật chứng ký hiệu lần lượt là D1 và D2, sau đó đưa D và người làm chứng về trụ sở Công an lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang theo quy định của pháp luật. Ngoài ra còn tạm giữ của D 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu đen, 01 chiếc xe máy biển kiểm soát K2-9744 đều đã cũ và 500.000 đồng.

Bản kết luận giám định số 475/GĐKTHS ngày 17-5-2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận:

Mẫu chất rắn dạng tinh thể màu trắng thu giữ của Vũ Đức D được niêm phong ký hiệu D1 gửi giám định đều là ma túy, loại ma túy Ketamine, tổng khối lượng mẫu D1: 1,660 gam.

Mẫu 01 viên nén hình huy hiệu màu xanh, trên bề mặt có ghi hình chữ NFL được niêm phong ký hiệu D2 gửi giám định là ma túy, loại ma túy MDMA, khối lượng mẫu D2: 0,364 gam.

Tại Cơ quan điều tra: Vũ Đức D đã khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với mục đích để sử dụng và nguồn gốc số ma túy trên như sau: Khoảng 22 giờ 15 phút ngày 16-5-2019, D điều khiển xe máy biển kiểm soát K2-9744 một mình từ chỗ làm tại quán karaoke Dragon, thành phố N đến khu vực đường T kéo dài, thành phố N gặp và mua của một người đàn ông (Không rõ lai lịch, địa chỉ) đang đứng ở vỉa hè 02 túi ma túy Ketamine và 01 viên ma túy tổng hợp với giá 300.000 đồng và cất vào trong túi quần đùi bên trái rồi đi xe máy về nhà để sử dụng. Khi D đi đến khu vực trước nhà nghỉ Trang M, đường V, xã M, thành phố N thì bị phát hiện bắt giữ.

Bản Cáo trạng số 223/CT-VKSTPNĐ ngày 17-7-2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N truy tố Vũ Đức D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm i Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà: Bị cáo Vũ Đức D xác nhận trong quá trình điều tra, truy tố không bị Cơ quan tiến hành tố tụng ép cung, bức cung hay nhục hình. Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản Cáo trạng đã nêu là đúng và khai nhận biết rõ hành vi cất giữ trái phép ma túy là vi phạm pháp luật, bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng do nghiện ma túy nên đã tàng trữ ma túy với mục đích để sử dụng cho bản thân. Bị cáo không khai báo thêm tình tiết mới và ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình.

Người bào chữa và người đại diện hợp pháp của bị cáo Vũ Đức D là bà Phùng Thị T và bà Bùi Tố Q không bổ sung gì về lời khai của bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N luận tội và tranh luận: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Vì vậy, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Vũ Đức D theo toàn bộ nội dung bản Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Vũ Đức D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng Điểm i Khoản 1 Điều 249, Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 90; Điều 91; Điều 101 của Bộ luật Hình sự: Phạt bị cáo từ 18 tháng tù đến 21 tháng tù; miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ số ma tuý đã thu giữ của bị cáo. Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động di động nhãn hiệu Iphone màu đen và 500.000 đồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Người bào chữa cho bị cáo Vũ Đức D trình bày lời bào chữa: Việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố đối với bị cáo Vũ Đức D là có cơ sở pháp lý đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo Vũ Đức D như điều kiện hoàn cảnh gia đình của bị cáo có bố mẹ ly hôn. Thời điểm thực hiện hành vi phạm tội bị cáo mới trên 17 tuổi chưa có kiến thức đầy đủ về pháp luật và nhận thức sâu sắc sự nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của mình đã thực hiện. Tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu; bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; có nơi cư trú rõ ràng. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 và Điều 91 về nguyên tắc xét xử đối với người dưới 18 tuổi phạm tội của Bộ luật Hình sự để cho bị cáo Vũ Đức D được hưởng mức án thấp nhất.

Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo đồng ý và không có ý kiến bổ sung gì đối với lời bào chữa của người bào chữa cho bị cáo. Bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, người đại diện theo pháp luật, người bào chữa không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau: Lời khai nhận tội của bị cáo Vũ Đức D có trong hồ sơ vụ án và quá trình tranh tụng tại phiên tòa bị cáo đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình, không có sự mâu thuẫn và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác như biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản thu giữ vật chứng; bản kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định; lời khai của những người làm chứng nên đã có đủ cơ sở kết luận khoảng 22 giờ 30 ngày 16-5-2019, tại khu vực trước cửa nhà nghỉ Trang M, đường V, xã M, thành phố N bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,660 gam Ketamine và 0,364 gam MDMA mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ. Hành vi phạm tội của bị cáo đã gây nguy hiểm và mất trật tự an ninh xã hội trên địa bàn thành phố N, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước. Bị cáo biết rõ hành vi tàng trữ ma túy của mình là vi phạm pháp luật, bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã hơn 16 tuổi chưa đủ 18 tuổi nhưng cùng một lúc bị cáo tàng trữ hai loại ma tuý nên phải chịu trách nhiệm hình sự về tội nghiêm trọng gây ra. Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Việc truy tố và đưa ra xét xử bị cáo theo Điểm i Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là đúng người đúng tội.

[3] Các tình tiết Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi Quyết định hình phạt đối với bị cáo:

[3.1] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 91 của Bộ luật Hình sự.

[3.2] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Từ những phân tích, đánh giá nêu trên đối với hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn ở mức thấp hơn đề xuất của Viện kiểm sát để cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và góp phần phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo tàng trữ ma túy với mục đích để sử dụng và thực hiện hành vi phạm tội chưa đủ 18 tuổi nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: 02 túi ma túy Ketamine và 01 viên ma túy tổng hợp MDMA trong phong bì niêm phong số 475/GĐKTHS là vật Nhà nước cấm tàng trữ nên tịch thu tiêu hủy. 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu đen và 500.000 đồng là tài sản của bị cáo xét thấy không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[7] Đối với đối tượng đã bán ma túy cho bị cáo và chiếc xe máy biển kiểm soát K2-9744 Cơ quan điều tra Công an thành phố N đang tiến hành xác minh nên tách ra tiếp tục điều tra, xử lý sau là phù hợp với quy định của pháp luật.

[8] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào Điểm i Khoản 1 Điều 249, Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 90; Điều 91; Khoản 1 Điều 101, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

- Tuyên bố bị cáo Vũ Đức D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt bị cáo Vũ Đức D 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo được tính từ ngày 17-5-2019.

2. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 02 túi ma túy Ketamine và 01 viên ma túy tổng hợp MDMA trong phong bì niêm phong số 475/GĐKTHS. Trả lại cho bị cáo Vũ Đức D 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu đen và 500.000 đồng (Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 25-7-2019 giữa Công an thành phố N và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố N) nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

3. Án phí: Bị cáo Vũ Đức D phải nộp 200.000 đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo Vũ Đức D, người đại diện hợp pháp của bị cáo, người bào chữa của bị cáo được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án có quyền tự nguyện thi hành hoặc cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

307
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 217/2019/HSST ngày 06/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy 

Số hiệu:217/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về