Bản án 215/2017/HSST ngày 07/07/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 215/2017/HSST NGÀY 07/07/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 7 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 132/2017/HSST ngày 18/5/2017 đối với bị cáo:

PHẠM TẤN S, giới tính: Nam; sinh: 01/12/1989; nơi sinh: tại Tp H; thường trú: ấp N, xã P, huyện B, Tp.Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: không; con ông Phạm Văn C và bà Bùi Thị Hoàng L; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; tạm giam: 07/02/2017 (có mặt).

NHẬN THẤY

Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức truy tố về hành vi phạm tội nh Phạm Tấn S khai nhận S và Lê Thành T là người nghiện ma túy. Khoảng giữa tháng01/2017, S mua ma túy đá với giá  6.000.000đ, tại khu vực cầu K, Quận T, Tp.Hồ Chí Minh để sử dụng. Khoảng 21 giờ ngày 06/02/2017, Lê Thành T rủ S đến ngã tư 550 thuộc tỉnh Bình Dương thăm chú của T, S đồng ý. S cầm ma túy đi theo và điều khiển xe mô tô biển số 59H1-339.91 chở T. Khoảng 03 giờ 45 phút ngày 07/02/2017, S điều khiển xe mô tô chở T về đến đường K, phường L, quận Đ, Tp.Hồ Chí Minh thì bị Công an phường L kiểm tra, thu giữ trong người của S 02 gói nylon hàn kín, bên trong chứa tinh thể không màu và 01 gói nylon bên trong chứa 06 viên nén hình tròn, S khai là ma túy. Công an phường L, quận Đ lập biên bản phạm tội quả tang và chuyển hồ sơ đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức để điều tra.

Kết luận giám định số 45/KLGĐ-H ngày 22/3/2017 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an TP.HCM kết luận:

- 01 gói niêm phong bên ngoài có chữ ký Phạm Tấn S và hình dấu Công an phường L, quận Đ, bên trong có: Tinh thể không màu trong 02 gói nylon, gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 2,6995gr, loại Methamphetamine.

- 06 viên hình tròn màu xanh nhạt có khắc chữ “B” trong 01 gói nylon gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 2,2469gr, loại Methamphetamine.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công quận Thủ Đức, Phạm Tấn S đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nêu trên.

Vật chứng vụ án:

- 01 gói niêm phong ghi vụ số 415, bên trong chứa ma túy còn lại sau giám định;

- 01 bóp da màu đen;

- 01 xe mô tô hiệu Execiter, biển số 59H1-339.91 (đã trả chủ sở hữu).

Tại bản cáo trạng số 169/CT - VKS ngày 16/5/2017 Viện kiểm sát nhân dân quậnThủ Đức đã truy tố  bị cáo Phạm Tấn S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức phát biểu ý kiến đánh giá nội dung vụ án, phân tích hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Phạm Tấn S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự như nội dung cáo trạng đã truy tố và đề nghị áp dụng điều luật đã truy tố, áp dụng điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 01 đến 02 năm tù và xử lý vật chứng theo quy định.

Bị cáo S đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức đã truy tố; nhìn nhận trách nhiệm của mình, tỏ thái độ ăn năn hối cải, xin giảm nhẹ hình phạt

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo.

XÉT THẤY

Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy được xác định là khách quan, phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, kết luận giám định và các chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án. Đã có đủ căn cứ xác định ngày 07/02/2017, tại đường K, phường L, quận Đ, Tp.Hồ Chí Minh, bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy ở thể rắn là Methamphetamine, khối lượng 4,9464gr, nhằm mục đích sử dụng, nên có đủ căn cứ kết luận hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt trừng trị được quy định tại Điều 194 Bộ luật Hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền và thống nhất quản lý đối với chất gây nghiện của nhà nước. Mọi hành vi trái pháp luật liên quan đến ma túy đều bị nghiêm cấm và xử lý nghiêm khắc, hành vi phạm tội của bị cáo thể hiện xem thường kỷ cương pháp luật của nhà nước. Việc truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật. Do đó, cần xử lý nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định nhằm đảm bảo tác dụng cải tạo, giáo dục riêng và răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự, nên giảm một phần hình phạt cho bị cáo mà đáng ra bị cáo phải chịu.

Theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015, Điều 249 quy định về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, khoản 1: Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các T hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 đến 05 năm. Như vậy, Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 có khung hình phạt nhẹ hơn khung hình phạt của Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999. Căn cứ Nghị quyết 109/2015/QH13 ngày 27/11/2015 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật hình sự năm 2015 và Nghị quyết 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 của Quốc Hội về việc lùi hiệu lực thi hành Bộ luật hình sự năm 2015, áp dụng nguyên tắc có lợi cho bị cáo khi xét xử những hành vi phạm tội xảy ra trước ngày Bộ luật hình sự năm 2015 được Quốc hội thông qua, hình phạt có lợi quy định trong Bộ luật hình sự năm 2015 được áp dụng khi xét xử đối với bị cáo.

Người đã bán ma túy cho bị cáo, do không xác định được lai lịch nên chưa có căn cứ xử lý.

Về xử lý vật chứng vụ án :

- 01 gói niêm phong ghi vụ số 415, bên trong chứa ma túy, 01 bóp da màu đen, là vật cấm lưu hành và vật không còn giá trị sử dụng, nên tịch thu tiêu hủy.

- Chiếc xe mô tô hiệu Exciter, biển số 59H1-339.91, do Phạm Văn C (cha bị cáo) đứng tên sở hữu. Bị cáo tự ý lấy xe sử dụng và ông C không biết bị cáo sử dụng vào việc phạm tội, Cơ quan Cảnh sát điều tra trả lại xe cho ông C là đúng quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1- Tuyên bố bị cáo Phạm Tấn S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2- Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999;  Nghị quyết số 109/2015/QH13 ngày 27/11/2015 và Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 của Quốc Hội

Xử phạt bị cáo Phạm Tấn S 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/02/2017.

3- Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 bóp da màu đen, 01 gói niêm phong, bên trong chứa ma túy, ghi vụ số 415. (phiếu nhập kho số 132 ngày 19/6/2017 của Chi Cục THA.DS quận Thủ Đức).

4-  Áp  dụng:

 Điều 99 Bộ luật Tố tụng Hình sự, Luật phí và lệ phí số  97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội về phí và lệ phí, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo S nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo được quyền kháng cáo để Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh để xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

269
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 215/2017/HSST ngày 07/07/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:215/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:07/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về