Bản án 213/2019/HS-ST ngày 12/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 213/2019/HS-ST NGÀY 12/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 220/2019/TLST-HS ngày 24 tháng 10 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 849/2019/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trương Vũ Đăng L; sinh năm: 1995, tại Cà Mau; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Khóm 2, phường 6, thành phố M, tỉnh Cà Mau; chổ ở: Số 311, đường K, khóm 2, phường 6, thành phố M, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 7/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trương Thanh H (đã chết) và bà Vũ Thị Hồng L (còn sống); vợ, con: Chưa có; tiền sự: Không; tiền án: Không; Nhân thân: chưa bị xử lý vi phạm hành chính, chưa có án tích. Bị cáo bị tạm gi ngày 06/7/2019 đến ngày 09/7/2019 chuyển tạm giam đến nay tại Nhà tạm gi Công an thành phố Cà Mau (bị cáo có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 01 giờ 30 phút ngày 06/7/2019, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy công an tỉnh Cà Mau kết hợp với Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố M và Công an phường 9, thành phố M bắt quả tang Trương Vũ Đăng L đang tàng trữ trái phép chất ma túy tại khóm 3, phường 9, thành phố M. Tang vật thu gi gồm có:

Thu gi trong túi quần phía trước bên trái của L 05 (năm) bịch ny lon bên trong có chứa tinh thể màu trắng và 04 (bốn) viên nén màu vàng. Tất cả được niêm phong thu gi trong phong bì hình ch nhật, có ghi rõ họ tên và ký xác nhận của Trương Vũ Đăng L (là người bị bắt), Hà Văn Q là người chứng kiến, Nguyễn Hoàng K cảnh sát 113 Công an tỉnh Cà Mau, Điều tra Viên Lê Thanh T và Hồ H u H là Phó trưởng Công an phường 9, thành phố M cùng hai dấu tròn của Công an phường 9, thành phố M.

01 xe môtô biển số 69E1- 197.34; tiền Việt Nam 750.000 đồng.

Tại kết luận giám định số 114/GĐH/PC09 ngày 07 tháng 7 năm 2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Cà Mau xác định:

Mẫu tinh thể màu trắng bên trong 05 (năm) gói nylon, được niêm phong kính trong phong bì hình ch nhật, ký hiệu M.61/2019, thu gi vào ngày 06/7/2019 gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 1,2985 gam, loại Ketamine.

Mẫu 04 (bốn) viên nén màu vàng, được niêm phong kính trong phong bì hình ch nhật, ký hiệu M.61/2019, thu gi vào ngày 06/7/2019 gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 1,4971 gam loại MDMA.

(Ketamine là chất ma túy nằm trong danh mục III, STT 35, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ).

(MDMA là chất ma túy nằm trong danh mục I, STT 27, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ) Kèm theo kết luận giám định: Không.

Hoàn lại đối tượng giám định: Hoàn lại 1,1103 gam tinh thể màu trắng mẫu ký hiệu M.61/2019 và 0,7981 gam mẫu viên nén màu vàng ký hiệu gửi giám định có niêm phong sau khi trích giám định, không lưu.

Tại biên bản thử nước tiểu phát hiện nhanh chất ma túy ngày 06/7/2019, sau khi thử nước tiểu kết quả L có sử dụng trái phép chất ma túy.

Quá trình điều tra Trương Vũ Đăng L khai nhận:

Vào khoảng 01 giờ ngày 06/7/2019 L đang nhậu ở quán Bar G phường 5, thành phố M cùng với LA, N và nh ng người bạn của LA không biết rõ tên. Trong lúc nhậu thì L nói hùn tiền lại mua ma túy về sử dụng thì LA đưa cho L 1.200.000 đồng và L hùn 300.000 đồng, tổng cộng là 1.500.000 đồng. Sau khi LA đưa tiền cho L xong thì LA liên hệ với một thanh niên mua ma túy ở trước khách sạn T, phường 9, thành phố M. LA kêu L từ quán quán Bar G qua gần khách sạn T gặp một thanh niên đang đứng đợi ở bụi cây trước khách sạn T thì người thanh niên đó hỏi L lấy đồ phải không? thì L trả lời là phải. L đưa cho người thanh niên đó 1.500.000đồng và người thanh niên đó đưa cho L 05 bịch ma túy và 04 viên nén màu vàng. Khi nhận được ma túy cất vào túi quần bên trái phía trước rồi điều khiển xe về quán Bar. Trên đường về đến khóm 3 phường 9, thành phố M thì bị Công an bắt quả tang cùng tang vật.

Vật chứng trong vụ án: 01 (một) phong bì hoàn mẫu đã niêm phong: Số 114-GĐH/PC-09, ngày 07/7/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Cà Mau hiện đang nhập kho vật chứng chờ xử lý.

Đi với xe môtô biển số 69E1- 197.34 qua điều tra xác định xe này là của bà Vũ Thị Hồng L là mẹ ruột của L đứng tên, sở h u. Việc L lấy xe của bà L đi mua ma túy bà L không biết và số tiền 750.000 đồng là tài sản cá nhân của L không liên quan đến việc phạm tội. Nên ngày 07/7/2019 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cà Mau đã trả lại xe môtô biển số 69E1- 197.34 cho bà L và 750.000 đồng cho L, bà Lê nhận thay.

Tại cáo trạng số: 219/CT-VKS ngày 22/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau truy tố bị cáo Trương Vũ Đăng L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử vẫn gi nguyên quyết định truy tố đối với Trương Vũ Đăng L và đề nghị:

Về tội danh: Đề nghị tuyên bố bị cáo Trương Vũ Đăng L phạm tội “Tàng tr trái phép chất ma tuý”. Về điều luật và hình phạt: Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự: Đề nghị xử phạt bị cáo từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì hoàn mẫu đã niêm phong gồm số 114-GĐH/PC-09, ngày 07/7/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Cà Mau.

Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. [2] Tại phiên tòa, bị cáo hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và phù hợp với các chứng cứ Cơ quan điều tra thu thập trong quá trình điều tra gồm: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; bản tự khai của bị cáo, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong hồ sơ vụ án. Từ đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 01 giờ ngày 06 tháng 7 năm 2019 tại khóm 3, phường 9, thành phố M, Trương Vũ Đăng L đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với trọng lượng là 1,4971gam loại MDMA và 1,2985 gam loại ketamine, nhằm mục đích sử dụng thì bị bắt quả tang. (Ketamine là chất ma túy nằm trong danh mục III, STT 35, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ; MDMA là chất ma túy nằm trong danh mục I, STT 27, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ)

[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý. Bởi lẽ: Ma túy là chất gây nghiện nên Nhà nước độc quyền quản lý. Nghiêm cấm các hoạt động sản xuất, tàng tr , mua bán, vận chuyển, chiếm đoạt sử dụng các chất ma túy. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức rõ việc tác hại của ma tuý ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ, đời sống của con người, gián tiếp gây ra các tệ nạn xã hội, làm suy thoái nòi giống và có thể dẫn đến các căn bệnh truyền nhiễm khác, gây mất an ninh trật tự trên địa bàn thành phố Cà Mau, nhưng bị cáo vẫn thực hiện với lỗi cố ý. Nên hành vi của bị cáo Trương Vũ Đăng L phạm tội “tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự đúng như Viện kiểm sát đã truy tố.

Vì vậy, Hội đồng xét xử thấy rằng cần có mức án tương xứng với tính chất, mức độ và hậu quả của hành vi bị cáo đã gây ra nhằm răn đe, giáo dục bị cáo trở thành người tốt, có ích cho xã hội, đồng thời nhằm cảnh báo, tuyên truyền với nh ng ai không chấp hành quy định của pháp luật, gây tác hại đến sức khỏe con người, làm ảnh hưởng xấu đến xã hội, nhằm phòng ngừa hậu quả chung cho toàn xã hội.

[4] Tuy nhiên, Hội đồng xét xử cũng xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng: Bản thân bị cáo có nhân thân tốt, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải. Bị cáo có ông ngoại được nhà nước tặng thưởng nhiều huân chương như: Huân chương quyết thắng hạng nhất; huân chương lao động hạng nhì; huân chương kháng chiến hạng nhất để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[5] Về vật chứng: Số ma tuý hoàn lại trong 01 (một) phong bì hoàn mẫu đã niêm phong số 114-GĐH/PC-09 là vật cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Đối với Nghi, Lâm, và một số người bạn của Nghi, Lâm cùng người thanh niên bán ma túy theo lời khai của L hiện chưa xác định được nên giao cơ quan Cảnh sát điều tra công an thành phố Cà Mau tiếp tục xác minh làm rõ nếu có căn cứ xử lý sau là phù hợp.

[7] Đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về điều luật áp dụng, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và xử lý vật chứng là có căn cứ phù hợp với các quy định của pháp luật nên được chấp nhận.

[8 Án phí hình sự sơ thẩm buộc bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự; Điều 106, Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. tuý”.

Tuyên bố bị cáo Trương Vũ Đăng L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma Xử phạt bị cáo Trương Vũ Đăng L 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày tạm gi 06/7/2019.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì hoàn mẫu đã niêm phong số 114-GĐH/PC-09 (theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 23/10/2019).

Án phí hình sự sơ thẩm buộc bị cáo Trương Vũ Đăng L phải nộp 200.000 đồng (chưa nộp).

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 213/2019/HS-ST ngày 12/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:213/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về