Bản án 212/2020/HS-ST ngày 31/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 212/2020/HS-ST NGÀY 31/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 207/2020/TLST-HS ngày 31 tháng 7 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 237/2020/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Đỗ Quốc T, sinh năm: 1989 tại tỉnh Bình Dương. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: tổ 31, khu 8, phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Nghề nghiệp: Thợ sơn nước; trình độ học vấn: 4/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông Đỗ Văn C và bà Nguyễn Thị T; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 21/4/2020 và tạm giam cho đến nay; có mặt.

Nhân thân:

- Ngày 08/11/2011, bị Công an thị xã Thủ Dầu Một (nay là thành phố Thủ Dầu Một), tỉnh Bình Dương ra Quyết định số 6741/QĐ-CATX-MT xử phạt Đỗ Quốc T về hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy với số tiền 1.XX0.000 (một triệu năm trăm ngàn) đồng và T đã chấp hành xong.

- Ngày 12/11/2015, bị Công an thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương ra Quyết định số 562/QĐ-VPHC-CATP xử phạt Đỗ Quốc T về hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy với số tiền 2.000.000 (hai triệu) đồng và T đã chấp hành xong.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Đỗ Thị Cẩm N, sinh năm 1985, địa chỉ: khu 8, phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

Người làm chứng: Nguyễn Văn B, vắng mặt.

Người chứng kiến: Đỗ Văn T, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 21/4/2020, trong lúc Đỗ Quốc T đang ở nhà thì nảy sinh ý định mua ma túy về sử dụng. Thực hiện ý định trên, T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Wave, màu đỏ, biển số 61T2-79XX chạy đến huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh để tìm mua ma túy. Khi T chạy đến khu vực chợ Chiều thuộc xã Tân Thạnh Đông, huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh thì T sử dụng điện thoại hiệu Nokia, màu đen, có sim số thuê bao 0379.189.XXX gọi đến số 0923.117.XXX của một người nam tên T1 (không xác định rõ họ tên và địa chỉ cư trú) để hỏi mua 200.000 (hai trăm ngàn) đồng ma túy đá (Methamphetamine) thì T1 đồng ý và nói T đứng chờ. Khoảng 10 phút sau, T1 điều khiển xe mô tô (không rõ nhãn hiệu và biển số) tới gặp T thì T đưa cho T1 số tiền 200.000 (hai trăm ngàn) đồng và nhận 01 (một) gói nylon hàn kín bên trong có chứa ma túy từ tay của T1. Sau khi mua ma túy xong, T cầm gói ma túy trên trong lòng bàn tay trái rồi điều khiển xe mô tô biển số 61T2-79XX chạy về Bình Dương. Trên đường về, T ghé vào một bãi đất trống cạnh bờ sông (không rõ địa chỉ cụ thể) lấy ma túy vừa mua được hòa tan một ít với nước suối (nước đóng chai) rồi lấy ống bơm kim tiêm đem theo chích vào tay. Số ma túy còn lại được T hàn lại, bỏ vào trong ốp lưng điện thoại cất vào bên trong túi quần phía trước bên trái. Sau đó, T tiếp tục điều khiển xe mô tô biển số 61T2-79XX chạy về Bình Dương (bút lục số 46→60). Đến khoảng 10 giờ XX phút cùng ngày 21/4/2020, khi T điều khiển xe mô tô biển số 61T2- 79XX lưu thông trên đường Nguyễn Văn Lộng, đoạn thuộc khu phố Chánh Lộc 3, phường Chánh Mỹ, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương thì bị lực lượng Công an phường Chánh Mỹ đang tuần tra trên đường Nguyễn Văn Lộng thấy T có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu T dừng xe để tiến hành kiểm tra thì phát hiện bên trong túi quần bên trái phía trước có 01 (một) điện thoại di động, trong đó phía sau ốp lưng điện thoại có 01 (một) gói nylon hàn kín bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng và T khai nhận đó là ma túy đá nên lực lượng Công an phường Chánh Mỹ tiến hành đưa T cùng tang vật về trụ sở Công an phường Chánh Mỹ để tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Đỗ Quốc T về hành vi có dấu hiệu phạm Tội tàng trữ trái phép chất ma túy và thu giữ số vật chứng, gồm: 01 (một) gói nylon hàn kín, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng (đã được niêm phong); 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen có sim số thuê bao 0379.189.XXX và 01 (một) xe mô tô hiệu Wave, màu đỏ, biển số 61T2-79XX (bút lục số 03→04, 09).

Ngày 28/4/2020, Phòng Kỹ thuật hình sự – Công an tỉnh Bình Dương có bản Kết luận giám định số 233/MT-PC09 kết luận: Tinh thể màu trắng trong 01 (một) gói nylon hàn kín trong một bì thư được niêm phong có chữ ký của người bị bắt là Đỗ Quốc T, cán bộ niêm phong Bùi Trung H và hình dấu đỏ của Công an phường Chánh Mỹ, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương là ma túy, có khối lượng: 0,1560 gam, loại Methamphetamine. Khối lượng hoàn lại sau giám định 0,1020 gam, loại Methamphetamine (đã được niêm phong). Đối với số ma túy hoàn lại sau giám định này, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một ra Quyết định chuyển vật chứng đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một để đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một quyết định tịch thu, tiêu hủy.

Đối với xe mô tô nhãn hiệu Wave, màu đỏ, biển số 61T2-79XX, quá trình điều tra xác định: Xe mô tô trên do chị Đỗ Thị Cẩm N, sinh năm 1985, cư trú tại khu phố 8, phường T, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương là chị ruột của Đỗ Quốc T đứng tên trên Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô. Khoảng đầu năm 2020, chị N cho T mượn xe mô tô trên để làm phương tiện di chuyển hàng ngày, việc ngày 21/4/2020 T đi mua ma túy để sử dụng thì chị N không hay biết. Do đó ngày 23/4/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Thủ Dầu Một đã lập biên bản trả lại xe mô tô nhãn hiệu Wave, màu đỏ, biển số 61T2-79XX cho chị N theo Quyết định xử lý đồ vật, tài liệu số 78 cùng ngày 23/4/2020 (bút lục số 16 → 21).

Đối với người nam T niên tên T1 là người bán ma túy loại Methamphetamine cho Đỗ Quốc T, do quá trình điều tra không xác định rõ họ, tên và địa chỉ cư trú nên Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Thủ Dầu Một sẽ tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ để xử lý sau khi có đủ căn cứ.

Cáo trạng số 216/CT-VKS-HS ngày 29/7/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một truy tố bị cáo Đỗ Quốc T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một trong phần luận tội giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo mức hình phạt từ 01 (một) năm 03 (ba) tháng đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Về biện pháp tư pháp: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy số ma túy thu giữ của Đỗ Quốc T có khối lượng hoàn lại sau giám định là 0,1020 gam, loại Methamphetamine;

- Trả cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen, có sim số thuê bao 0379.189.XXX.

Tại phần tranh luận, bị cáo không tranh luận với Viện Kiểm sát về tội danh, khung hình phạt và mức hình phạt đã đề nghị. Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi sai trái của mình, mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án và đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản hỏi cung bị can, biên bản niêm phong, kết luận giám định cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Khoảng 10 giờ XX phút ngày 21/4/2020, trên đường Nguyễn Văn Lộng, đoạn thuộc khu phố Chánh Lộc 3, phường Chánh Mỹ, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, Đỗ Quốc T đã bị Công an phường Chánh Mỹ tiến hành kiểm tra và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy có khối lượng là 0,1560 gam loại Methamphetamine để nhằm mục đích sử dụng. Do vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi mà bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến hoạt động quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy. Hiện nay, tình hình nghiện hút chất ma túy đang diễn ra phức tạp trong mọi tầng lớp. Tệ nạn này là mối quan tâm của toàn xã hội và là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm hình sự khác. Bị cáo là người có nhân thân xấu. Do đó, để có tác dụng giáo dục bị cáo ý thức tuân theo pháp luật, cần có mức hình phạt nghiêm, tương xứng với T1nh chất, mức độ của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, đồng thời nhằm răn đe và phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Căn cứ vào nhân thân, tính chất mức độ phạm tội cũng như tình tiết giảm nhẹ, xét mức hình phạt mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về biện pháp tư pháp:

Đối với số ma túy thu giữ của Đỗ Quốc T có khối lượng hoàn lại sau giám định là 0,1020 gam, loại Methamphetamine là tang vật trong vụ án nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen, có sim số thuê bao 0379.189.XXX là tài sản cá nhân của bị cáo không liên quan đến vụ án nên trả cho bị cáo.

[7] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự; các Điều 106, 136, 260, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1/ Tuyên bố bị cáo Đỗ Quốc T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2/ Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Đỗ Quốc T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù T1nh từ ngày 21/4/2020.

3/ Về biện pháp tư pháp:

Tịch Thu tiêu hủy 01 (một) bì thư niêm phong có chữa ký người bị bắt Đỗ Quốc T, cán bộ niêm phong Bùi Trung H và hình dấu đỏ Công an phường Chánh Mỹ, thành phố Thủ Dầu Một, bên trong có 01 gói nylon chứa ma túy, trọng lượng sau giám định 0,1020 gam theo kết luận giám định số 233/MT-PC09 ngày 28/4/2020.

Trả cho bị cáo Đỗ Quốc T 01 (một) điện thoại di động đã qua sử dụng hiệu Nokia, màu xanh đen, sim số 0379.189.XXX số Imei1: 353397098242XXX, số Imei2: 353397098322XXX.

(Thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng số 178.20 ngày 30/7/2020 giữa Chi cục Thi hành án dân sự và Công an thành phố Thủ Dầu Một).

4/ Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 212/2020/HS-ST ngày 31/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:212/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về