TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 212/2019/HS-PT NGÀY 31/07/2019 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Vào ngày 31 tháng 07 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 170/2019/TLPT-HS ngày 23 tháng 4 năm 2019 đối với các Lê Văn T, Nguyễn Quang T1, do có kháng cáo của bị cáo và bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 18/2019/HS-ST ngày 14/03/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 703/2019/QĐXXPT-HS ngày 01-7-2019.
- Bị cáo có kháng cáo, bị kháng cáo:
1. Lê Văn T, sinh năm 1999 tại Bình Định; nơi cư trú: thôn T, xã P, thành phố Q, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lê Văn T (chết) và bà Đào Thị E, sinh năm: 1960; vợ, con: chưa có; tiền án: không, tiền sự: Ngày 19.9.2017 bị Công an thành phố Q, tỉnh Bình Định xử phạt hành chính về hành vi đánh nhau và cất giấu hung khí nhằm mục đích đánh nhau với mức phạt 4.000.000 đồng, bị cáo chưa nộp tiền phạt; bị cáo bị bắt, tạm giam ngày: 20.10.2018; có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo Lê Văn T: Ông Hồ K - Luật sư hoạt động tại Văn phòng luật sư B thuộc Đoàn luật sư tỉnh Bình Định; có mặt.
2. Nguyễn Quang T1, sinh năm 1998 tại Bình Định; nơi cư trú: xã P, thành phố Q, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Quang T, sinh năm 1972 và bà Nguyễn Thị Thùy V, sinh năm: 1973; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị bắt, tạm giam ngày: 20.10.2018; có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Quang T1: Ông Nguyễn Văn T - Luật sư hoạt động tại Văn phòng luật sư T, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Bình Định.
- Bị hại: Ông Lê Quán T2 (đã chết) Người đại diện hợp pháp của bị hại: Bà Nguyễn Thị N - sinh năm: 1970; nơi cư trú: xóm 4, thôn T, xã P, thành phố Q, tỉnh Bình Định; có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đại diện hợp pháp của bị hại: Ông Võ Hồng N, luật sư của Công ty TNHH MTV N thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Bình Định; có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: ông Lê Văn N - sinh năm 1989; nơi cư trú: xóm 4, thôn T, xã P, thành phố Q, tỉnh Bình Định; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 18 giờ 30 ngày 19/10/2018, Lê Văn T điều khiển xe môtô biển số 77L1-821.93 của Lê Văn N (anh ruột T) chở Nguyễn Quang T1 đến quán Internet X ở thành phố Q, tỉnh Bình Định để chơi game thì gặp Lê Quán T2 và Lê Văn T3. Do trước đó T2 và T đã có mâu thuẫn, thách thức đánh nhau qua Facebook, nên khi vừa gặp T2 thì T dùng tay đánh nhiều cái vào mặt và đầu T2 vàTường đánh trả lại. Thấy vậy, T1 và T3 căn ngăn; T1 ôm giữ T lại, còn T2 bỏ đi. Nghĩ rằng T2 sẽ quay lại đánh nhau nên T đi xuống phòng bếp của quán X lấy một con dao Thái Lan giấu trong người rồi vào chơi game.
Sau khi bị T đánh, T2 đi đến quán cà phê A cũng ở thành phố Q thì gặp Đồng Tiến L, Huỳnh Thế P. T2 nhờ L, P chở đến quán Internet X. Đồng Tiến L đưa chìa khóa xe môtô cho T2 điều khiển chở P và L đi đến tiệm Internet X. Đến nơi, T2 thả xe chạy vào trong quán, rút trong người ra một con dao Thái Lan thách thức T ra đánh nhau. T2 và T mỗi người cầm một con dao đang thách thức nhau thì được mọi người can ngăn. Lúc này, P đi từ ngoài sân vào nắm tay T2 kéo đi; nhóm T2 cùng đi về lại quán cà phê A.
Sau khi T2 đi khỏi, T bực tức nên bảo T1 “Mày chở tao về lấy kiếm chém chết mẹ nó luôn”; T1 đã điều khiển xe môtô biển số 77L1-821.93 chở T về nhà của T lấy một cây kiếm (dạng kiếm Nhật, dài khoảng 01 mét) dưới gầm giường rồi đi ra vườn nhà ném bỏ con dao Thái Lan và bảo T1 chở đến quán cà phê A. T1 chở T đến nơi và dừng xe ngoài đường trước cổng quán, T xuống xe cầm cây kiếm đi vào trong quán. Thấy T đi vào, Dưỡng chạy ra can ngăn bảo T đi về thì T2 từ trong quán cầm dao Thái Lan chạy ra đòi đâm T. T liền vung kiếm chém về phíaTường một nhát nhưng không trúng. Dưỡng tiếp tục can ngăn T, còn T2 vẫn xông đến đòi đâm T, nên T vung kiếm chém T2 một nhát nữa nhưng cũng không trúng. T2 cầm dao tiếp tục xông đến thì T vung kiếm lên cao, chém mạnh một nhát theo hướng từ trên xuống, trúng vào đầu T2, làm T2 ngã sấp xuống nền sân nằm im tại chỗ. T cầm kiếm quay ra bảo T1 chở đi về nhà. Bị hại Lê Quán T2 được T3 đưa vào Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Định cấp cứu, nhưng đến 22 giờ 30 phút cùng ngày thì chết.
Lúc 20 giờ ngày 19/10/2018, Nguyễn Quang T1 được gia đình đưa đến Công an xã P, thành phố Q đầu thú. Lúc 22 giờ cùng ngày, Lê Văn T được gia đình đưa đến Cơ quan Công an thành phố Q đầu thú.
Gia đình Lê Quán T2 thống kê chi phí cấp cứu, mai táng với số tiền là 91.844.000 đồng và yêu cầu bồi thường tổn thất tinh thần 139.000.000 đồng; tổng cộng là 230.844.000 đồng. Gia đình bị cáo Lê Văn T đã tự nguyện bồi thường thiệt hại số tiền 60.000.000 đồng; gia đình bị cáo Nguyễn Quang T1 đã tự nguyện bồi thường thiệt hại số tiền 20.000.000 đồng cho gia đình bị hại.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 18/2019/HS-ST ngày 14/03/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định quyết định :
Tuyên bố: Các bị cáo Lê Văn T, Nguyễn Quang T1 đều phạm tội “Giết người”; Áp dụng: điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; xử phạt:
- Bị cáo Lê Văn T 17 (mười bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 20.10.2018.
- Bị cáo Nguyễn Quang T1 12 (mười hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 20.10.2018.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 22/03/2019 bị cáo Nguyễn Quang T1 có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt; đồng thời ngày 18/4/2019 gia đình bị cáo T1 đã nộp bồi thường thiệt hại thêm cho gia đình bị hại số tiền 50.844.000 đồng tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Bình Định.
Ngày 27/03/2019 đại diện hợp pháp của bị hại bà Nguyễn Thị N có đơn kháng cáo yêu cầu tăng hình phạt đối với các bị cáo Lê Văn T, Nguyễn Quang T1.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo T1 giữ nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và trình bày lý do xin giảm nhẹ là bị cáo không tích cực giúp sức, không trực tiếp tham gia đánh nhau và đã cố gắng can ngăn 02 lần trước đó, bị cáo đi chung xe máy với bị cáo T từ đầu nên phải chở đi.
Bà Nguyễn Thị N nêu lý do kháng cáo là do bồi thường dân sự còn ít so với mức mà Tòa sơ thẩm đã quyết định, nên chưa thể hiện sự ăn năn hối cải.
Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa có ý kiến Hội đồng xét xử phúc thẩm đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và đề nghị: trường hợp bị cáo T1 do có tình tiết mới và không trực tiếp đánh nhau, vai trò thứ yếu nên chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo T1, áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 và khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt. Đồng thời không chấp nhận kháng cáo yêu cầu tăng hình phạt của đại diện hợp pháp của người bị hại đối với T.
Luật sư bào chữa cho bị cáo T thống nhất với ý kiến của Kiểm sát viên, đề nghị áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ là “đầu thú” tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo T và không chấp nhận kháng cáo tăng hình phạt của đại diện hợp pháp cho người bị hại.
Luật sư bào chưa cho bị cáo T1 thống nhất với ý kiến của Kiểm sát viên; đồng thời cho rằng bị cáo T1 trước đó đã tích cực can ngăn, ôm bị cáo T lại, như vậy bị cáo T1 không có ý chí đánh nhau với bị hại. Bị cáo T1 chở bị cáo T là do tình huống cùng đi chung một xe máy với nhau từ trước nên khó tách ra trong trường hợp này; không thể hiện sự giúp sức tích cực như bản án sơ thẩm nhận định. Bị cáo có tình tiết mới và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, đã tự nguyện bồi thường toàn bộ trách nhiệm dân sự của mình theo mức đã thỏa thuận tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo đầu thú ngay sau khi gây án, trước khi bị hại chết; đủ điều kiện áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 và khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về tội danh: các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để xác định:
Bị cáo Lê Văn T và bị hại Lê Quán T2 có mâu thuẫn, thách thức với nhau từ trước trên mạng xã hội Facebook. Vào khoảng 18 giờ 30 phút ngày 19/10/2018, Lê Văn T cùng đi với Nguyễn Quang T1 đến quán internet X, khi gặp T2 ở đây thì T liền xông vào dùng tay đánh T2 và hai bên đánh nhau. Sau khi được bị cáo T1 và T3 can ngăn thì T2 đã bỏ đi. Bị cáo T tìm lấy một con dao Thái Lan thủ sẵn trong người. Một lúc sau thì T2 quay lại cầm một con dao Thái Lan, cả T và T2 đều cầm dao thách thức đánh nhau thì được mọi người can ngăn. T2 cùng nhóm bạn đi đến quán cà phê A. Lê Văn T bảo Nguyễn Quang T1 điều khiển xe mô tô chở T về nhà lấy 01 cây kiếm (dạng kiếm Nhật, dài 01 mét) để chém chết T2 và T1 đã đồng ý chở đi. Vào khoảng 19 giờ cùng ngày, Nguyễn Quang T1 chở Lê Văn T đến quán cà phê A ở thôn T, xã P, thành phố Q. Đến nơi, bị cáo Nguyễn Văn T1 đứng ngoài đường, còn Lê Văn T cầm kiếm vào quán; T và T2 đứng đối diện nhau và tiếp tục thách thức đánh nhau, T đã dùng kiếm chém 03 nhát, 02 nhát đầu không trúng nhưng nhát chém thứ 3 trúng vào vùng trán đỉnh trái của Lê Quán T2 gây vỡ lún sọ, dập não, chảy máu nội sọ dẫn đến tử vong.
Hành vi của bị cáo Lê Văn T chỉ vì mâu thuẫn nhỏ mà đã tước đoạt tính mạng của bị hại, sự việc xảy ra ở tại quán quán internet X đã được can ngăn, có sự cách quãng thời gian với sự việc xảy ra tại quán cà phê A; nên việc bị cáo T vẫn còn bực tức về nhà lấy kiếm sắt đi tìm T2 để chém là hành vi thể hiện tính côn đồ hung hãn, xem thường pháp luật. Bị cáo Nguyễn Quang T1 biết là bị cáo T về lấy kiếm để đi chém T2 nhưng vẫn đồng ý chở đi, nên phải chịu trách nhiệm chung về hậu quả với bị cáo T.
Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định đã quyết định tuyên bố các bị cáo Lê Văn T, Nguyễn Quang T1 phạm tội “Giết người” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[2]. Xét kháng cáo của người đại diện hợp pháp cho bị hại:
Đối với bị cáo Lê Văn T là người trực tiếp gây sự đánh nhau với bị hại, bị cáo là người chuẩn bị hung khí, là người chủ mưu và đã trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội có tính chất côn đồ, hậu quả là bị hại chết; bị cáo có nhân thân xấu nên cần có thời gian dài để cải tạo, giáo dục. Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nhưng mức bồi thường chưa đạt 50% so với phần trách nhiệm phải chịu. Do vậy, thấy cần chấp nhận kháng cáo theo hướng tăng mức hình phạt đối với bị cáo T.
Đối với bị cáo T1 thì bị cáo chỉ tham gia giúp sức với hành vi cụ thể là chở bị cáo T đi đến địa điểm phạm tội, không trực tiếp có mặt tại hiện trường, không tham gia gây sự đánh nhau, không trực tiếp gây ra cái chết cho bị hại. Cho nên kháng cáo tăng hình phạt đối với bị cáo T1 là không có cơ sở.
[3]. Về kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo T1:
Bị cáo T1 đồng phạm về hành vi “Giết người” với bị cáo T trong vai trò giúp sức; lúc đầu khi bị cáo T và T2 đánh nhau thì bị cáo T1 đã tích cực can ngăn, ôm bị cáo T1 lại. Khi chở bị cáo T đến quán cà phê A thì bị cáo T1 đứng ngoài đường không vào quán, bị cáo T1 không tham gia đánh nhau, không chuẩn bị hung khí đánh nhau, do vậy bị cáo giúp sức nhưng có vai trò thứ yếu, không thể hiện sự tích cực trong đồng phạm, tính chất côn đồ trong hành vi phạm tội của bị cáo cũng nhẹ hơn nhiều so với bị cáo T.
Bị cáo Nguyễn Quang T1 không có tiền án tiền sự, sau khi phạm tội đã đầu thú; bị cáo đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; sau khi xét xử sơ thẩm đã tiếp tục bồi thường số tiền 50.844.000 đồng, đây là tình tiết giảm nhẹ mới ở cấp phúc thẩm. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ; đồng thời xét tính chất của hành vi và mức độ về vai trò tham gia giúp sức của bị cáo trong vụ án, về nhân thân của bị cáo, thấy cần áp dụng khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự để xử bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, để bị cáo sớm có thời gian hòa nhập xã hội, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.
[4]. Đối với tình tiết giảm nhẹ “đầu thú” của 02 bị cáo là rõ ràng, tuy tại phần quyết định của bản án sơ thẩm không áp dụng, nhưng trong nhận định của bản án sơ thẩm có nêu để áp dụng khi định lượng mức hình phạt. Ý kiến của Luật sư bào chữa cho bị cáo T1 và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phúc thẩm đề nghị áp dụng thêm khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự để giảm cho bị cáo T1 một phần hình phạt là hợp lý. Do vậy cần sửa bản án sơ thẩm về phần hình phạt đối với các bị cáo.
[5]. Các quyết định khác còn lại của bản án sơ thẩm về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng và án phí sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét. Riêng đối với khoản tiền bồi thường dân sự của bị cáo Nguyễn Quang T1, theo bản án sơ thẩm thì bị cáo phải tiếp tục bồi thường cho bên bị hại số tiền 50.844.000 đồng, ngày 18/4/2019 gia đình bị cáo T1 đã tự nguyện nộp tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Bình Định toàn bộ số tiền là 50.844.000 đồng để bồi thường cho bên bị hại. Như vậy đại điện gia đình bị hại được nhận số tiền này và bị cáo T1 đã thực hiện bồi thường xong toàn bộ theo mức trách nhiệm bồi thường của bị cáo.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự;
Sửa một phần bản án sơ thẩm về phần hình phạt đối với bị cáo Lê Văn T và bị cáo Nguyễn Quang T1.
- Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Lê Văn T 19 (mười chín) năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 20.10.2018.
- Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Quang T1 08 (tám) năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 20.10.2018.
2. Án phí hình sự phúc thẩm bị cáo T1 và bà Nguyễn Thị N không phải chịu.
3. Các quyết định khác còn lại của bản án sơ thẩm về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng và án phí sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực từ ngày hết thời hiệu kháng cáo, kháng nghị. Đại diện hợp pháp cho bị hại (bà Nguyễn Thị N) được nhận số tiền bồi thường dân sự của bị cáo Nguyễn Quang T1, mà gia đình bị cáo T1 đã nộp là 50.844.000 đồng tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Bình Định (do bà Nguyễn Thị Thùy Vân nộp) theo Biên lai thu số 08029 ngày 18/4/2019. Bị cáo Nguyễn Quang T1 đã nộp đủ số tiền bồi thường dân sự mà bản án sơ thẩm đã quyết định.
4. Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 212/2019/HS-PT ngày 31/07/2019 về tội giết người
Số hiệu: | 212/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/07/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về