Bản án 21/2021/HSST ngày 29/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN M – TP HÀ NỘI

BẢN ÁN 21/2021/HSST NGÀY 29/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY  

Ngày 29 tháng 4 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện M, TP Hà Nội xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 08/2021/HSST ngày 01 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2021/QĐXXST-HS ngày 16/4/2021 đối với bị cáo:

Lê Văn T - Sinh năm: 1994; Sinh trú quán: Thôn P, xã H, huyện M, TP Hà Nội; Dân tộc: Kinh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hoá: 1/12; Con ông: Lê Văn X (Đã chết); Con bà: Lê Thị D; Vợ: Lương Thị N (Đã ly hôn); Có 01 con sinh năm 2014; TATS: Theo danh chỉ bản ngày 06/01/2021 của Công an huyện M lập và lý lịch địa phương cung cấp bị cáo không có tiền sự, có 01 tiền án.

Ngày 17/8/2017 bị TAND huyện M xử phạt 24 tháng tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy (Chấp hành xong hình phạt tù ngày 04/3/2019, chưa được xóa án tích).

Bắt ngày 06/01/2021, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 13h30 ngày 06/01/2021, tại khu vực cánh đồng G, thuộc thôn 10, xã P, huyện M, Công an xã P bắt quả tang Lê Văn T, sinh năm 1994, trú tại Thôn P, xã H, huyện M có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tang vật thu giữ tại túi quần bên phải của T: 01 gói nhỏ bọc giấy, bên trong có chứa chất bột màu trắng, T khai là Heroine, mua về để sử dụng.

Tại Kết luận giám định số 444/KLGĐ-P09 ngày 12/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an TP Hà Nội kết quả:

Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy màu trắng là mà túy loại heroine, khối lượng: 0.063 gam.

Quá trình điều tra xác định Lê Văn T khai nhận như sau:

Khong 13h00 ngày 06/01/2021, T đi bộ từ nhà ra ngã tư C, đi nhờ xe máy của một người đàn ông không quen biết đến địa phận thôn 10, xã P. T xuống xe, đi bộ một đoạn thì gặp người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ. T đưa cho người đàn ông 100.000 đồng để mua ma túy nhằm mục đích để sử dụng. Người đàn ông đồng ý, nhận tiền và đưa cho T 01 gói ma túy loại heroin. T bỏ vào túi quần bên phải, đi ra thì bị bắt quả tang.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Lê Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi theo đúng như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

Cáo trạng số: 06/KSĐT ngày 29/3/2021 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện M đã truy tố Lê Văn T về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm a Khoản 1 Điều 249 - Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay xác định: Hành vi của bị cáo Lê Văn T đã đủ yếu tố cấu T tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm a khoản 1 Điều 249 – Bộ luật hình sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 của BLHS.

Về hình phạt: Đề nghị xử phạt bị cáo Lê Văn T mức án từ 18 đến 24 tháng tù.

nh phạt bổ sung: Không áp dụng.

Về vật chứng:

- Đề nghị tịch thu tiêu hủy 0.063 gam Heroin Nói lời sau cùng, bị cáo nhận thấy việc làm của bản thân là vi phạm pháp luật, mong Hội đồng xét xử xem xét mở lượng khoan hồng cho bị cáo mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện M, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai báo và xuất trình các tài liệu chứng cứ phù hợp với quy định của pháp luật và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Xét lời nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, lời khai người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản tạm giữ đồ vật, bản kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở kết luận: Hồi 13h30 phút ngày 06/01/2021 Công an xã P phát hiện và bắt quả tang Lê Văn T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0.063 gam Heroin, năm 2017 bị cáo bị TAND huyện M xử phạt 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, chưa được xóa án án tích mà còn vi phạm nên hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu T tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện M đã đưa ra các chứng cứ buộc tội và truy tố bị cáo về tội danh nêu trên là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã cố ý xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy và xâm phạm trật tự an toàn xã hội được Bộ luật hình sự bảo vệ. Xét về hành vi, tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, HĐXX thấy cần phải áp dụng hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS của bị cáo: Năm 2017 bị cáo bị kết án về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy, ngày 04/3/2019 chấp hành xong hình phạt tù, chưa được xóa án tích. Do tình tiết này được áp dụng là tình tiết định tội nên lần phạm tội này không bị coi là tái phạm. Tuy nhiên, bị cáo có nhân thân xấu, cần áp dụng hình phạt tù đủ để bị cáo nhận thức hành vi của mình, trở T công dân có ích cho gia đình và xã hội. Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ T khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập có mức độ không có điều kiện để thi hành nên không áp dụng.

[6] Về vật chứng:

- Cho tịch thu, tiêu hủy 0.063 gam Heroin là vật Nhà nước cấm lưu hành.

Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng hình phạt, xử lý vật chứng phù hợp với nhận định của HĐXX nên được chấp nhận.

[7] Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo tại khu vực thôn 10, xã P, huyện M, TP Hà Nội. Bị cáo T khai không biết rõ nhân thân lai lịch, do đó cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, làm rõ.

Bị cáo phải chịu án phí HSST theo Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và những người tham gia tố tụng được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 ; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

1. Tuyên bố bị cáo Lê Văn T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Xử p hạt: ngày: 06/01/2021.

Lê Văn T 20 (Hai mươi) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ 2.Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

- Tịch thu, tiêu hủy 0,063 gam Heroin.

(Hiện có tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện M theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 29/3/2021).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 bộ luật Tố tụng Hình sự và Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu án và lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải nộp 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm

4 . Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 bộ luật Tố tụng Hình sự. Án xử công khai sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 21/2021/HSST ngày 29/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy 

Số hiệu:21/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Đức - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về