Bản án 21/2021/HS-ST ngày 16/03/2021 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH XUYÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 21/2021/HS-ST NGÀY 16/03/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 16 tháng 3 năm 2021 tại Tòa án nhân dân huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 15/2021/TLST-HS ngày 03 tháng 02 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2021/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo:

Dương Văn T, sinh ngày 19 tháng 3 năm 1995 tại thị trấn B, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc; nơi cư trú: Tổ dân phố Quang Vinh, thị trấn B, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Văn N và bà Đỗ Thị H; vợ, con: Chưa có; tiền án: Bản án số 63/2017/HSST ngày 15 tháng 11 năm 2017, Tòa án nhân dân huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt Dương Văn T 2 năm 3 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 23 tháng 8 năm 2019; tiền sự: không; nhân thân: Bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, thời gian chấp hành tại cơ sở giáo dục bắt buộc là 06 tháng theo Quyết định số 02/QĐ-TA ngày 05 tháng 05 năm 2014 của Tòa án nhân dân huyện Bình Xuyên, chấp hành xong ngày 03 tháng 12 năm 2014. Ngày 6 tháng 9 năm 2016 Công an huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt vi phạm hành chính đối với Dương Văn T về hành vi xâm hại sức khỏe của người khác; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 31 tháng 10 năm 2020 đến nay “có mặt”.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1997 (Không xác định được địa chỉ) “vắng mặt”.

Anh Dương Văn L, sinh năm 1997; trú tại: Tổ dân phố V, thin trấn B, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ ngày 31 tháng 10 năm 2020, khi Dương Văn T đang ở nhà tại tổ dân phố Quang Vinh thì nhận được điện thoại từ số 0569973287 của 01 người nữ giới tự khai tên là Nguyễn Thị H, sinh năm 1997 ở tổ dân phố Kếu - Đạo Đức - Bình Xuyên - Vĩnh Phúc gọi điện đến số điện thoại của Tuấn là 0326509321 để hỏi mua của Tuấn 01 gói ma túy đá với giá 500.000 đồng; Tuấn đồng ý và trả lời Huệ “có đấy, đợi tí”. Sau đó, Tuấn điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter biển kiểm soát: 88G1- 339.90 (Xe Tuấn mượn của bạn là anh Dương Văn L) đi đến khu vực cầu Khả Do - Nam Viêm - Phúc Yên - Vĩnh Phúc tìm mua ma túy đá về bán cho Huệ để kiếm lời. Tại đây, Tuấn gặp và mua của 01 người nam giới (Tuấn không biết tên, địa chỉ) 01 gói ma túy đá đựng trong túi nilon để trong vỏ bao thuốc lá Thăng Long với giá 300.000 đồng rồi Tuấn cất gói ma túy vào túi áo khoác bên phải đang mặc sau đó điều khiển xe mô tô đi về đến thị trấn B, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc thì Tuấn gọi điện thoại cho Huệ hỏi Huệ đang ở đâu, Huệ bảo Tuấn đến nhà nghỉ Thành Dương 6 thuộc tổ dân phố Đê Hến – Bá Hiến – huyện Bình Xuyên để mua bán ma túy. Do không biết nhà nghỉ Thành Dương 6 nên Tuấn có gặp Dương Văn Nguyên là bạn với Tuấn nhờ anh Nguyên đi cùng để chỉ đường cho Tuấn đến nhà nghỉ Thành Dương 6 nhưng Tuấn không nói cho anh Nguyên biết việc Tuấn đi bán ma túy nên anh Nguyên đã đồng ý. Khoảng 16 giờ 40 phút cùng ngày, anh Nguyên đi cùng dẫn đường cho Tuấn đi đến nhà nghỉ Thành Dương 6, khi đến cổng nhà nghỉ thì anh Nguyên xuống xe đợi Tuấn trước cửa nhà nghỉ, còn Tuấn điều khiển xe mô tô biển kiểm soát: 88G1 - 339.90 đi vào gặp Huệ đang đứng ở tầng 1 của nhà nghỉ. Như đã thỏa thuận, Huệ đưa cho Tuấn 01 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng để mua ma túy, Tuấn cầm tờ tiền cất vào túi áo khoác bên trái đang mặc trên người rồi lấy trong túi áo khoác bên phải đang mặc trên người 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long bên trong có gói ma túy đá rồi đưa cho Huệ nhưng Huệ chưa kịp cầm thì bị bắt quả tang và thu giữ tang vật gồm: Thu của Tuấn 01 gói nilon kích thước 1cm x 1cm bên trong có chứa các hạt tinh thể dạng đá màu trắng để trong 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long (Tuấn khai là ma túy mang đến bán cho Huệ), được niêm phong kí hiệu A; 01 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng; 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter biển kiểm soát: 88G1-339.90 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO; tạm giữ của Nguyễn Thị H 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen.

Cùng ngày cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét chỗ ở của Dương Văn T ở Tổ dân phố Quang Vinh, thị trấn B, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc nhưng không phát hiện thu giữ đồ vật gì.

Tại kết luận giám định số 2845/KLĐG ngày 04 tháng 11 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: “Tinh thể dạng đá màu trắng của mẫu ký hiệu A gửi giám định là ma túy có khối lượng 0,1865g (không phảy một tám sáu năm gam, không kể bao bì), loại Methamphetamine. Hoàn trả trực tiếp đối tượng giám định còn lại sau giám định gồm: 0,1528gam mẫu cùng toàn bộ bao gói.

Cơ quan điều tra quyết định trưng cầu giám định mẫu nước tiểu của Dương Văn T; tại kết luận giám định số 2852 ngày 05 tháng 11 năm 2020 Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: “Tìm thấy chất ma túy Methamphetamine trong mẫu chất lỏng màu vàng ghi là mẫu nước tiểu thu của Dương Văn T, sinh năm 1995, HKTT: TDP.Quang Vinh- Bá Hiến- Bình Xuyên- Vĩnh Phúc…”. Hoàn trả trực tiếp đối tượng giám định còn lại sau giám định gồm: 0,0ml mẫu cùng toàn bộ bao gói.

Cáo trạng số 21/CT-VKSBX ngày 02 tháng 02 năm 2021 Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Xuyên truy tố Dương Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát trình bày lời luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo như Cáo trạng đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự; xử phạt Dương Văn T từ 03 năm đến 03 năm 03 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 31 tháng 10 năm 2020.

Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Tuấn.

Đồng thời đề xuất quan điểm về xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Ý kiến của những người tham gia tố tụng: Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong quá trình điều tra trình bày và xác nhận về việc bị cáo trình bày về chiếc xe mô tô biển kiểm soát: 88G1 – 339.90 là đúng. Việc bị cáo sử dụng xe mô tô của anh làm phương tiện đi mua bán ma túy anh không biết, anh đã nhận lại xe mô tô và không có yêu cầu gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như Cáo trạng đã truy tố. Bị cáo khai nhận: Khoảng 16 giờ 40 phút ngày 31 tháng 10 năm 2020 tại tầng 1 nhà nghỉ Thành Dương 6 thuộc tổ dân phố Đê Hến - Bá Hiến - Bình Xuyên - Vĩnh Phúc, Dương Văn T đang bán trái phép 0,1865g ma túy Methamphetamine với giá 500.000 đồng cho đối tượng tự khai tên là Nguyễn Thị H thì bị bắt quả tang. Xét lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định cùng các tài liệu chứng cứ khác được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Từ đó có đủ cơ sở để kết luận hành vi của Dương Văn T đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự .

Nội dung điều luật quy định: “1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”.

[3] Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi ma tuý là chất gây nghiện nguy hiểm được nhà nước độc quyền và thống nhất quản lý với các quy định rất nghiêm ngặt. Bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của nhà nước, làm ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an và an toàn xã hội nên cần xử phạt nghiêm mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa tội phạm.

[4] Xét về nhân thân của bị cáo cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo là người có nhân thân xấu đã nhiều lần bị xử phạt hành chính và có 01 tiền án về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mình, bất chấp quy định của pháp luật đã mua bán trái phép chất ma túy để kiếm lời và lấy ma túy sử dựng cho bản thân chứng tỏ bị cáo là kẻ coi thường pháp luật. Nhưng sau khi phạm tội bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo có 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Do vậy, cần xử phạt bị cáo với mức hình phạt tù tương xứng với tính chất mức độ về hành vi bị cáo đã thực hiện như mức hình phạt vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo như biên bản xác minh giữa Công an huyện Bình Xuyên và Công an thị trấn Bá Hiến, huyện Bình Xuyên thì Dương Văn T là người nghiện ma túy, không nghề nghiệp, không có thu nhập và không có tài sản gì. Do vậy, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với Tuấn như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp.

[6] Về vật chứng và các vấn đề liên quan trong vụ án:

Về nguồn gốc số ma túy Dương Văn T đem bán ngày 31 tháng 10 năm 2020, do Tuấn không biết tên tuổi và địa chỉ của người nam giới bán ma túy cho Tuấn, Cơ quan điều tra không xác định được danh tính nên không có căn cứ để xử lý.

Đối với người nữ giới tự khai tên là Nguyễn Thị H, sinh năm 1997 ở tổ dân phố Kếu - Đạo Đức - Bình Xuyên - Vĩnh Phúc là người mua ma túy của Tuấn, sau khi viết tự khai, lợi dụng sơ hở Huệ đã bỏ trốn, Cơ quan điều tra đã xác minh nhưng không xác định được danh tính nên không có căn cứ để xử lý.

Đối với Dương Văn Nguyên là người đi cùng với Tuấn đến nhà nghỉ Thành Dương 6, nhưng Nguyên không biết việc Tuấn đi mua bán ma túy nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với Nguyên.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter biển kiểm soát:

88G1-339.90 quá trình điều tra xác định là của anh Dương Văn L là bạn Tuấn. Anh Lực cho Tuấn mượn xe nhưng không biết Tuấn sử dụng xe mô tô để đi mua bán trái phép chất ma túy nên cơ quan điều tra đã trả lại xe mô tô cho anh Lực, sau khi nhận lại xe anh Lực không có đề nghị gì. Do vậy, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Việc Huệ và Tuấn vào nhà nghỉ Thành Dương 6 để mua bán ma túy người quản lý nhà nghỉ không biết nên Cơ quan Điều tra không đề cập xử lý đối với người quản lý nhà nghỉ.

Đối với mẫu vật hoàn lại sau giám định gồm 0,1528g gam mẫu và toàn bộ bao gói; mẫu vật hoàn lại sau giám định nước tiểu Cơ quan giám định hoàn trả lại sau giám định cùng 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với số tiền 500.000đồng là tiền của Huệ trả cho Tuấn để mua ma túy nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

Đối với 01 điện thoại nhãn hiệu OPPO của Dương Văn T và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen của Nguyễn Thị H. Qúa trình điều tra đã làm rõ là điện thoại Tuấn và Huệ dùng để liên lạc mua bán ma túy. Do vậy, cần tịch thu bán phát mại nộp ngân sách nhà nước.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Dương Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Dương Văn T 03 (Ba) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 31 tháng 10 năm 2020.

Căn cứ khoản 1, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 500.000đồng (Năm trăm nghìn đồng).

Tịch thu tiêu hu 0,1528g gam mẫu và toàn bộ bao gói; mẫu vật hoàn lại sau giám định nước tiểu và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long.

Tịch thu phát mại nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO của Dương Văn T và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen của Nguyễn Thị H.

(Toàn bộ vật chứng của vụ án có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Bình Xuyên và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Xuyên lập ngày 03 tháng 02 năm 2021).

Về án phí: Buộc bị cáo Dương Văn T phải chịu 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 21/2021/HS-ST ngày 16/03/2021 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

Số hiệu:21/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Xuyên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về