Bản án 21/2020/HS-ST ngày 26/02/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, TP.HÀ NỘI

BẢN ÁN 21/2020/HS-ST NGÀY 26/02/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 14/2020/TLST-HS ngày 13 tháng 02 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Hà Văn G - Gii tính: Nam; tên gọi khác: Không; sinh năm: 1997; nơi sinh: Lào Cai; ĐKNKTT và chỗ ở: Z, X, huyện C, Lào Cai; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; văn hóa: 9/12; con ông: Hà Văn Đỉnh và bà: Hoàng Thị Bông; vợ: La Thị Hiền, có 01 con sinh năm 2016; tiền án - tiền sự: Theo danh chỉ bản số 14 ngày 24-11-2019 do Công an huyện K lập và lý lịch bị can thì bị cáo chưa có tiền án - tiền sự; bị cáo bị bắt quả tang ngày 21-11-2019, tạm giữ từ ngày 21-11-2019 đến ngày 30-11-2019 chuyển tạm giam; có mặt.

2. Hà Văn D - Gii tính: Nam; tên gọi khác: Không; sinh năm: 1999; nơi sinh: Lào Cai; ĐKNKTT và chỗ ở: Z, X, huyện C, Lào Cai; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; văn hóa: 9/12; con ông: Hà Văn B và bà: Hà Thị Q; tiền án - tiền sự: Theo danh chỉ bản số 13 ngày 24-11-2019 do Công an huyện K lập và lý lịch bị can thì bị cáo có 01 tiền sự: Năm 2018, đi cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy số 1 tỉnh Lào Cai, ngày 28-5-2019, được trở về địa phương; bị cáo bị bắt quả tang ngày 21-11-2019, tạm giữ từ ngày 21-11-2019 đến ngày 30-11-2019 chuyển tạm giam; có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo: Ông Lê Quang F-Trợ giúp viên của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước thành phố Hà Nội; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bản thân G và D đều nghiện chất ma túy. Khoảng 14 giờ ngày 21-11-2019, tại khu công nghiệp H, N, Hà Nội, Hà Văn G rủ Hà Văn D đi mua ma túy về sử dụng chung, D đồng ý. G điều khiển xe máy BKS: 29Z1-005.40 chở D ngồi đằng sau đến khu vực S, Bắc Ninh để mua ma túy. Trên đường đi, G và D bàn bạc, thống nhất mỗi người góp 150.000 đồng và G sẽ tạm ứng ra 300.000 đồng để mua ma túy. Khi đến khu vực S, Bắc Ninh, G và D dừng xe tại đầu một ngõ nhỏ ven đường, G đi bộ vào ngõ đến một căn nhà, G đưa 300.000đ qua ô cửa cổng, mua ma tuý được để trong 01 túi nilong màu trắng bên trong có 03 gói giấy bạc màu trắng chứa chất bột màu trắng, của một người không rõ nhân thân. Sau đó, G đi ra và đưa cho D số ma tuý vừa mua được, D cầm và cất vào trong túi quần phía trước bên phải đang mặc. Sau đó, G điều khiển xe máy chở D đi về hướng Hà Nội để tìm nơi sử dụng. Khi đi đến khu vực gần cây xăng dầu số 88 Dốc Lã, Yên Thường, K, Hà Nội thì G và D bị lực lượng Công an bắt giữ cùng vật chứng.

Tại bản Kết luận giám định số 7471/KLGĐ-PC09 ngày 30-11-2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an TP.Hà Nội kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 03 gói giấy bạc màu trắng đều là ma túy loại Heroine, tổng khối lượng 0,325 gam.

Bản cáo trạng số: 16/CT-VKSGL ngày 13-02-2020 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện K đã truy tố Hà Văn G và Hà Văn D về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Các bị cáo đã khai nhận thành khẩn toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

Người bào chữa cho các bị cáo tại phiên tòa đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Đại diện Viện Kiểm sát giữ D công tố luận tội và tranh luận: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của người làm chứng phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra thấy rằng: Hành vi của các bị cáo Hà Văn G và Hà Văn D đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS.

Đề nghị HĐXX áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 47 của BLHS và Điều 106 của BLTTHS.

Về hình phạt: Đề nghị xử phạt bị cáo Hà Văn G mức án từ 20 đến 22 tháng tù; Hà Văn D mức án từ 18 tháng đến 20 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 0,325 gam heroin.

Nói lời sau cùng, các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện K, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện K, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm D, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã khai báo thành khẩn và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Xét lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản tạm giữ đồ vật-tài sản, bản kết luận giám định cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dung bản cáo trạng của Viện Kiểm sát đã truy tố.

[3] Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 16 giờ 30 phút ngày 21-11- 2019, tại khu vực đối diện cây xăng dầu số 88 Dốc Lã thuộc địa phận xã Yên Thường, K, Hà Nội, các bị cáo Hà Văn G, Hà Văn D có hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý Heroine, tổng khối lượng 0,325 gam nhằm mục đích sử dụng thì bị cơ quan Công an phát hiện bắt giữ cùng vật chứng.

[4] Hành vi của bị cáo Hà Văn G và bị cáo Hà Văn D có đầy đủ dấu hiệu của tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[5] Viện Kiểm sát nhân dân huyện K truy tố các bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

[6] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Các bị cáo đã cố ý xâm phạm đến sự độc D quản lý của nhà nước về chất ma túy được Bộ luật Hình sự bảo vệ. Vì vậy, cần phải nghiêm trị đối với các bị cáo.

Xét đây là vụ án đồng phạm giản đơn. Trong đó, G là kẻ chủ mưu và thực hành còn D là kẻ thực hành.

- Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo:

[7] Về tình tiết tăng nặng: Nhân thân của G chưc có tiền án – tiền sự; nhân thân D có 01 tiền sự: Năm 2018, đi cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy số 1 tỉnh Lào Cai, ngày 28-5-2019, được trở về địa phương nhưng chưa được xóa. Tuy nhiên đây không phải là tình tiết tăng nặng TNHS theo Điều 52 của BLHS nhưng cũng xét bị cáo có nhân thân xấu. Như vậy, các bị cáo không có tình tiết tăng nặng TNHS.

[8] Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đều thành khẩn nhận tội, ăn năn hối cải; các bị cáo là người dân tộc thiểu số là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[9] Trong khi Đảng và Nhà nước ta đang kiên quyết đấu tranh để loại trừ tệ nạn ma túy, mại dâm ra khỏi đời sống xã hội thì hành vi phạm tội của các bị cáo xét về tính chất, mức độ thấy cần phải xử phạt bị cáo một mức án tù trong khung hình phạt nhằm cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm.

Khi quyết định hình phạt, HĐXX cũng xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo vì bị cáo có tình tiết giảm nhẹ như đã nhận định ở trên. Tuy nhiên xét vai trò của từng bị cáo thấy cần phải xử phạt bị cáo G ở mức án cao hơn so với bị cáo D là có căn cứ.

- Về hình phạt bổ sung:

[10] Xét thấy các bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định, không có tài sản riêng và không có khả năng thi hành hình phạt bổ sung bằng tiền nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là có căn cứ.

- Về xử lý vật chứng:

[11] Thu giữ của các bị cáo 0,325 gam heroin là phương tiện các bị cáo dùng để thực hiện tội phạm nên cần cho tịch thu tiêu hủy là có căn cứ.

- Về vấn đề khác:

[12] Đối với đối tượng bán ma túy cho G, hiện không xác định được nhân thân nên không có căn cứ xử lý.

[13] Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu đỏ, BKS 29Z1- 005.40 thu giữ của G, quá trình kiểm tra xác minh đăng ký xe mang tên chủ sở hữu chị Nguyễn Thị J - sinh: 1992, trú tại: Mạnh Trữ, Chu Phan, N, Hà Nội. Ngày 21-11-2019, vợ chồng chị J cho anh G mượn xe nhưng không biết G sử dụng xe để đi mua ma túy. Do vậy, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện K đã trả chiếc xe trên cho chị Nguyễn Thị J là có căn cứ nên HĐXX không đặt vấn đề xử lý.

[14] Đại diện VKSND huyện K đề nghị về hình phạt chính, hình phạt bổ sung, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ TNHS và xử lý vật chứng là có căn cứ và phù hợp với nhận định của HĐXX.

- Về án phí:

[15] Các bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

- Về D kháng cáo:

[16] Các bị cáo được D kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt:

+ Bị cáo Hà Văn G 20 (Hai mươi) tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 21-11-2019.

+ Bị cáo Hà Văn D 18 (Mười tám) tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 21-11-2019.

2. Về hình phạt bổ sung: Không.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,325g heroin (đã trích mẫu để giám định là 0,036; hiện tại còn lại là 0,289g heroin) (Hiện đang có tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện K theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 13-02-2020).

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Hà Văn D và bị cáo Hà Văn G, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

5. D kháng cáo: Các bị cáo, người bào chữa có D làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Tòa tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

150
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 21/2020/HS-ST ngày 26/02/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:21/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về