Bản án 21/2020/HS-ST ngày 14/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 21/2020/HS-ST NGÀY 14/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 5 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 23/2020/TLST-HS ngày 17 tháng 04 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:20/2020/QĐXXHS-ST ngày 29 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

Lê Chí N (Lê Trí N); Sinh năm 1987. Nơi sinh: Sóc Trăng;

Đăng ký thường trú: ấp Nội Ô, thị trấn H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng.

Giới tính: Nam.

Trình độ học vấn: 7/12; Nghề nghiệp: Không. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không.

Con ông: Lê Ngọc T, sinh năm: 1951 và bà: Phan Thị A, sinh năm 1951. Anh, chị, em ruột: có 06 người, lớn sinh năm 1978, nhỏ là sinh năm 1991.

Vợ: chưa có. Tiền án: không. Tiền sự: không.

Về nhân thân: Bị cáo từng bị kết án: lần thứ nhất: Vào ngày 09/4/2004, bị Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng tuyên phạt 04 năm tù về tội Hiếp dâm;

Lần thứ hai: Vào ngày 31/8/2010, bị Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử phúc thẩm tuyên phạt 05 năm tù về tội Cố ý gây thương tích, chấp hành xong ngày 22/10/2014, đến nay đã được xóa án tích; 01 lần bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Sóc Trăng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, thời hạn 24 tháng, về hành vi gây rối trật tự công cộng.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 26 tháng 12 năm 2019 và chuyển sang tạm giam cho đến nay (có mặt)

- Người làm chứng: Trần Ngọc T1, sinh năm 2000; Địa chỉ: Số 945, đường 30 Tháng 4, Khóm 1, Phường 3, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 20 giờ 00 phút, ngày 26 tháng 12 năm 2019, Công an thành phố Sóc Trăng và Công an phường 2, thành phố Sóc Trăng kiểm tra hành chính Nhà nghỉ số 79, tại địa chỉ số 79, đường Dương Kỳ Hiệp, Khóm 3, Phường 2, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng, phát hiện bắt quả tang đối tượng Lê Chí N (Lê Trí N) đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy tại phòng số 2, trong ba lô của N có bịch ny lon màu đen, bên trong tinh thể và chất màu trắng ngà nghi chất ma túy; 01 ống thủy tinh màu trắng bên trong có chứa chất màu trắng ngà, đựng trong hộp giấy màu trắng có chữa OPPO, nghi vấn là chất ma túy.

Tại bản kết luận giám định số 120, ngày 31 tháng 12 năm 2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng kết luận: Gói 01: Mẫu tinh thể và chất màu trắng ngà được niêm phong gửi giám định là ma túy loại Methamphetamine, có khối lượng 0,1909 gam; Gói 02: chứa chất màu trắng ngà được niêm phong gửi giám định, là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,1129 gam. Tổng khối lượng của hai gói ma túy là: 0,3038 gam, loại Methamphetamine.

Tại bản Cáo trạng số 25/CT-VKS.TPST ngày 16 tháng 4 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng đã truy tố bị cáo Lê Chí N (Lê Trí N) về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại tòa, bị cáo thừa nhận cáo trạng truy tố đúng với hành vi bị cáo thực hiện.

Tại toà, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Chí N (Lê Trí N) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; đề nghị áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo; đề nghị xử phạt bị cáo từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Xử lý vật chứng: Điều 47 của Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a, c khoản 2; điểm a Khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy: 02 (hai) gói niêm phong số 120/GĐMT-PC09 ngày 31/12/2019 của Phòng kỹ thuật Công an tỉnh Sóc Trăng, có chữ ký của giám định viên Phạm Thanh Trường Sơn, trợ lý giám định Phùng Thúy An và Điều tra viên Tiền Thanh Phong; 01 (một) ống thủy tinh màu trắng, không đo kích thướt; 04 (bốn) cái hộp quẹt gas đã qua sử dụng; 01 (một) bình nhựa có nắp màu đỏ, trên nắp có khót 02 lổ, trong đó 01 lổ có gắn 01 ống hút màu trắng, lổ còn lại không gắn vật gì; 01 nắp nhữa màu xanh khoét 02 lổ không có gắn vật gì thu được trong phòng vệ sinh; 01 (một) hộp giấy màu trắng cho chữ OPPO; 01 (một) hộp giấy màu đen có chữa Cream BB; 01 (một) bịch nylon màu đen; 01 (một) ba lô màu đen;

Trả lại cho bị cáo: 01 (một) điện thoại di động có nắp lưng, màu hồng nhạt, có chữ OPPO, đã qua sử dụng, có sim số 0948.071.737

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra và truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Ngoài ra, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, không có người nào có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định pháp luật.

[2]. Đối với việc vắng mặt những người làm chứng đã có lời khai làm rõ ở giai đoạn điều tra, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự tiến hành xét xử vắng mặt người làm chứng.

[3]. Tại phiên tòa bị cáo Lê Chí N (Lê Trí N) khai nhận: Vào khoảng 20 giờ, ngày 26 tháng 12 năm 2019, bị cáo được Toàn rủ sử dụng ma túy, thì bị cáo đồng ý, Toàn mua ma túy đưa cho bị cáo tại Nhà nghỉ 79, tại địa chỉ số 79, đường Dương Kỳ Hiệp, Khóm 3, Phường 2, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng, bị cáo cất giấu chuẩn bị sử dụng, thì bị lực lượng công an kiểm tra tại Phòng số 2 phát hiện bắt quả tang bịch ny lon màu đen, bên trong nghi vấn chất ma túy được bị cáo để trong ba lô. Qua giám định là ma túy, tổng khối lượng (trọng lượng) là 0,3038 gam, loại Methamphetamine. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, các chứng cứ và tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở để Hội đồng xét xử xác định: Bị cáo Lê Chí N (Lê Trí N) cất giấu ma túy nhằm mục đích sử dụng là Methamphetamine, trọng lượng là 0,3038 gam. Nên Hội đồng xét xử kết luận bị cáo Lê Chí N (Lê Trí N) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Như vậy, Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng truy tố đối với hành vi của bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4]. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Xét các tình tiết giảm nhẹ: Sau khi phạm tội, bị cáo đã thành khẩn khai báo. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự cần được xem xét để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5]. Xử lý vật chứng:

Vật chứng là hàng cấm, vật không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy: 02 (hai) gói niêm phong số 120/GĐMT-PC09 ngày 31/12/2019 của Phòng kỹ thuật Công an tỉnh Sóc Trăng, có chữ ký của giám định viên Phạm Thanh Trường Sơn, trợ lý giám định Phùng Thúy An và Điều tra viên Tiền Thanh Phong; 01 (một) ống thủy tinh màu trắng, không đo kích thướt; 04 (bốn) cái hộp quẹt gas đã qua sử dụng; 01 (một) bình nhựa có nắp màu đỏ, trên nắp có khoét 02 lổ, trong đó 01 lổ có gắn 01 ống hút màu trắng, lổ còn lại không gắn vật gì; 01 nắp nhữa màu xanh khoét 02 lổ không có gắn vật gì thu được trong phòng vệ sinh; 01 (một) hộp giấy màu trắng cho chữ OPPO; 01 (một) hộp giấy màu đen có chữa Cream BB; 01 (một) bịch nylon màu đen; 01 (một) ba lô màu đen;

Đi với tài sản là cá nhân của bị cáo, không sử dụng vào việc phạm tội cần trả lại cho bị cáo Lê Chí N (Lê Trí N): 01 (một) điện thoại di động có nắp lưng, màu hồng nhạt, có chữ OPPO, đã qua sử dụng, có sim số 0948.071.737.

[6]. Xét lời đề nghị của kiểm sát viên về việc áp dụng pháp luật là có căn cứ. Về hình phạt cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc hơn Kiểm sát viên đề nghị là phù hợp, tương xứng hành vi, tính chất, mức độ, hậu quả mà bị cáo gây ra.

[7].Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật;

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

1. Tuyên bố: Bị cáo Lê Chí N (Lê Trí N) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

2. Xử phạt bị cáo Lê Chí N (Lê Trí N) 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 26 tháng 12 năm 2019.

3. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 02 (hai) gói niêm phong số 120/GĐMT-PC09 ngày 31/12/2019 của Phòng kỹ thuật Công an tỉnh Sóc Trăng, có chữ ký của giám định viên Phạm Thanh Trường Sơn, trợ lý giám định Phùng Thúy An và Điều tra viên Tiền Thanh Phong; 01 (một) ống thủy tinh màu trắng, không đo kích thướt; 04 (bốn) cái hộp quẹt gas đã qua sử dụng; 01 (một) bình nhựa có nắp màu đỏ, trên nắp có khoét 02 lổ, trong đó 01 lổ có gắn 01 ống hút màu trắng, lổ còn lại không gắn vật gì; 01 nắp nhữa màu xanh khoét 02 lổ không có gắn vật gì thu được trong phòng vệ sinh; 01 (một) hộp giấy màu trắng cho chữ OPPO; 01 (một) hộp giấy màu đen có chữa Cream BB; 01 (một) bịch nylon màu đen; 01 (một) ba lô màu đen;

Trả lại cho bị cáo Lê Chí N (Lê Trí N): 01 (một) điện thoại di động có nắp lưng, màu hồng nhạt, có chữ OPPO, đã qua sử dụng, có sim số 0948.071.737

4. Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo phải nộp là 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng); Báo cho bị cáo được kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, để yêu cầu Tòa án tỉnh Sóc Trăng xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 21/2020/HS-ST ngày 14/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:21/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sóc Trăng - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về