Bản án 21/2019/HS-ST ngày 29/03/2019 về tội trộm cắp tài sản  

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN B, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 21/2019/HS-ST NGÀY 29/03/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 29 tháng 3 năm 2019, tại Tòa án nhân dân quận BT, thành phố  CT  xét  xử  sơ  thẩm  công  khai  vụ  án  hình  sự  sơ  thẩm  thụ  lý  số:14/2019/TLST-HS ngày 07 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án a xét xử số: 72/2019/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Tuấn Đ, sinh năm 1987. Nơi sinh: CT; nơi cư trú: Số, khu vực 7, phường HP, quận CR, thành phố CT; Chỗ ở như trên; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phan Tiến S (sống) và bà Trần Thị T (sống); bị cáo có 01 người em, bị cáo chưa có vợ con; tiền sự: 02 lần.

+ Lần 1: Ngày 21/3/2018 bị Công an quận NK, thành phố CT ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, áp dụng hình thức phạt tiền 1.500.000 đồng về hành vi Trộm cắp tài sản, chưa được xóa;

+ Lần 2: Ngày 25/7/2018 bị Công an phường HT, quận CR, thành phốCT ra quyết định xử phạt vi phạm hành hính, áp dụng hình thức phạt tiền 2.000.000 đồng về hành vi Trộm cắp tài sản, chưa được xóa;

Bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an quận NK, thành phố CT

* N ười  bị  hại : Bà Nguyễn Thị Vân Tr, sinh năm 1988. Địa chỉ: phường AT, quận BT, thành phố CT. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ ngày 18/9/2018, Trần Tuấn Đ một mình đi bộ từ nhà lên hướng quận BT nhằm mục đích tìm tài sản sơ hở để trộm cắp bán lấy tiền tiêu xài. Khi đi đến đoạn trước nhà số 300, đường V.V.K, khu vực 5, phường AT, quận BT thì Đ phát hiện 01 cây dù loại dùng để che nắng, mưa ngoài trời được gấp gọn của bà Nguyễn Thị Vân Tr không có người trông nên đã lén lút lấy trộm cây dù vác lên vai mang đi về hướng quận NK tìm chỗ tiêu thụ. Tuy nhiên, sau khi đi được một đoạn thì Đ bị lực lượng Công an phường AT, quận BT đang làm nhiệm vụ tuần tra phát hiện cùng với vật chứng thu giữ được là 01 cây dù có khung và chân bằng sắt, vải bạt màu đen đã qua sử dụng.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 60/BKL-HĐĐG ngày 12/10/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận BT kết luận: 01 cây dù có khung và chân bằng sắt cao 2,6m, vải bạt màu đen rộng 3,6m đã qua sử dụng có giá trị thành tiền là 400.000 đồng.

Quá trình điều tra, Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản vào ngày 19/9/2018, lời khai của Đ là hoàn toàn phù hợp với vật chứng thu giữ được, lời khai của bị hại cùng các tài liệu chứng cứ khác do Cơ quan điều tra thu thập được có tại hồ sơ vụ án.

Ngày 07/12/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận BT đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại tài sản cho bị hại là bà Nguyễn Thị Vân Tr 01 cây dù là vật chứng trong vụ án, bị hại đã nhận lại được tài sản bị mất trộm và không có yêu cầu gì thêm về trách nhiệm dân sự.

Tại Cáo trạng số 16/CT-VKSBT ngày 19/02/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận BT, thành phố CT đã truy tố bị cáo Trần Tuấn Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên toà sơ thẩm hôm nay:

Bị cáo Trần Tuấn Đ khai nhận, do muốn có tiền tiêu xài nên bị cáo đi từ nhà đến hướng BT để tìm tài sản trộm cắp. Bị cáo biết hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, bị cáo đã ăn năn, hối cải. Bị cáo mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận BT, thành phố CT vẫn giữ nguyên nội dung cáo trạng truy tố về tội danh và điều khoản áp dụng. Hành vi của bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội và xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác gây mất trật tự trị an ở địa phương nên cần phải xử lý nghiêm nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo có thái độ khai báo rõ ràng, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, cho thấy bị cáo đã thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét khi lượng hình. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 173, Điều 38, Điều 50, điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 tuyên bị cáo từ 06 (sáu) tháng đến 09 (chín) tháng tù giam.

Về xử lý vật chứng: Đã trả lại cây dù cho bị hại, tại phiên tòa hôm nay bị hại vắng mặt và không có yêu cầu gì nên không xem xét.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, căn cứ vào kết quả thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận trên cơ sở xem xét toàn diện chứng cứ, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận BT, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận BT, thành phố CT, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên toà sơ thẩm hôm nay phù hợp với các biên bản ghi lời khai và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Có đủ căn cứ xác định khoảng 23 giờ ngày 18/9/2018, bị cáo đi đến đoạn trước nhà số 300, đường V. V.K, khu vực 5, phường AT, quận BT thì phát hiện 01 cây dù của bà Nguyễn Thị Vân Tr không có người trông nên đã lén lút lấy trộm cây dù vác lên vai mang đi về hướng quận NK tìm chỗ tiêu thụ. Tuy nhiên, sau khi đi được một đoạn thì bị lực lượng Công an phường AT, quận BT đang làm nhiệm vụ tuần tra phát hiện cùng  với  tang  vật.  Theo  kết  luận  định  giá  tài  sản  số  60/BKL-HĐĐG  ngày 12/10/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận BT kết luận: 01 cây dù có khung và chân bằng sắt cao 2,6m, vải bạt màu đen rộng 3,6m đã qua sử dụng có giá trị thành tiền là 400.000 đồng. Tuy nhiên, bị cáo Đ đã có 02 tiền sự về hành vi trộm cắp tài sản, hiện nay bị cáo đang bị tạm giam về hành vi trộm cắp tài sản. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân quận BT truy tố bị cáo Đ về tội trộm cắp tài sản theo quy định tại điểm a khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 là có Căn cứ.

[3] Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo Trần Tuấn Đ là người đã trưởng thành, có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và nhận thức rõ việc trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vì không muốn lao động mà lại muốn có tiền tiêu xài nên bị cáo đã nhiều lần lén lút trộm cắp tài sản của người khác, bị cáo đã bị xử phạt hành chính nhiều lần nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội và xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác gây mất trật tự trị an ở địa phương nên cần phải xử lý nghiêm.

[4] Về nhân thân: Bị cáo đã có hai tiền sự về tội trộm cắp tài sản chưa được xóa nên cần có một mức án nghiêm khắc để giáo dục, răn đe bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội và phòng ngừa chung. Bị cáo đang bị tạm giam để chấp hành bản án hình sự sơ thẩm số 08/2019/HS-ST ngày 09/01/2019  của Tòa án nhân dân quận NK, thành phố CT. Do đó, Hội đồng xét xử tổng hợp hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 Bộ luật hình sự.

[5] Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo có thái độ khai báo rõ ràng, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, cho thấy bị cáo đã thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải, tài sản đã được thu hồi và trả lại cho người bị hại. Do đó, Hội đồng xét xử cũng xem xét các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo khi lượng hình.

[6] Về xử lý vật chứng: Vật chứng là cây dù đã trả lại cho bị hại, tại phiên tòa hôm nay bị hại vắng mặt và không có yêu cầu gì nên không xem xét.

[7] Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

 [8] Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo đúng quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Áp  dụng :

Điểm a khoản 1 Điều 173; Điều 38, Điều 50, điểm h, s khoản 1 Điều 51, Điều 55, Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tuyên bố : Trần Tuấn Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

 Xử  phạt  : Trần Tuấn Đ 09 (chín) tháng tù, tổng hợp hình phạt của Bản án số 08/2019/HS-ST ngày 09/01/2019  của Tòa án nhân dân quận NK, thành phố CT là 01 (một) năm tù. Bị cáo phải chấp hành 21 (Hai mươi mốt) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 10/10/2018.

Về xử lý vật chứng: Vật chứng là cây dù đã trả lại cho bị hại, tại phiên tòa hôm nay bị hại vắng mặt và không có yêu cầu gì nên không xem xét.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về án  phí :

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo được quyền kháng cáo; người bị hại được quyền kháng cáo kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại địa phương để xin Tòa án nhân dân thành phố CT xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 21/2019/HS-ST ngày 29/03/2019 về tội trộm cắp tài sản  

Số hiệu:21/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Thuỷ - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về