Bản án 21/2019/HSST ngày 17/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUY ĐỨC, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 21/2019/HSST NGÀY 17/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở TAND huyện Tuy Đức, tiến hành mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 25/2019/HSST, ngày 20/5/2019 đối với bị cáo:

Trần Xuân H; Sinh năm 1999, tại tỉnh N Đ; Nơi ĐKNKTT: Thôn T N, xã Đ N, huyện B Đ, tỉnh B P; Chỗ ở trước khi phạm tội: Số 100, đường H V, Phường T B, thành phố Đ X, tỉnh B P; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ văn hoá: 11/12; Con ông Trần Văn H (sinh năm 1973) và con bà Đoàn Thị M (sinh năm 1980); Tiền án: Tiền sự: không. Bin pháp ngăn chặn: Bị bắt, tạm giữ từ ngày 12/3/2019, sau đó chuyển tạm giam. Hiện đang tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Tuy Đức - Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 11/3/2019, Trần Xuân H điều khiển xe ô tô nhãn hiệu Madaz 3, biển kiểm soát 93A-142.15 (xe thuê của Cty TNHH MTV DV Lê H, do ông Lê Minh Th làm chủ) đi từ thành phố Đ X, tỉnh B P đến tỉnh Đ N. Khi đến thị trấn Đ P, huyện B Đ, tỉnh B P, Trần Xuân H mua của một đối tượng (chưa xác định nhân thân lai lịch) 01 gói ma túy đá với giá 500.000 đồng để sử dụng. Sau đó Trần Xuân H điều khiển xe đến rủ Vũ Huy H (sinh năm 2001, trú tại thôn 6, xã Đ R T, huyện T Đ) đến xã Đ B S, huyện T Đ tìm nhà nghỉ để nghỉ lại. Trên đường đi, Trần Xuân H dừng xe ở ven đường lấy một ít ma túy cho vào ống thủy tinh có gắn nỏ là dụng cụ sử dụng ma túy rồi cùng sử dụng. Số ma túy còn lại Trần Xuân H bỏ vào trong ví rồi cất trong hộc để đồ sát cần số xe ô tô.

Đến 20 giờ 45 phút cùng ngày, khi Trần Xuân H điều khiển xe ô tô đến thôn 4, xã Đ B S, huyện T Đ thì lực lượng Công an huyện Tuy Đức phát hiện bắt quả tang và thu giữ cùng tang vật. Tại Cơ quan cảnh sát điều tra Trần Xuân H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

* Vật chứng thu giữ gồm: Xe ô tô nhãn hiệu MazDa 3, biển số 93A-142.15; 01 gói ni lon bên trong chứa chất tinh thể màu trắng ghi là ma túy; 01 ống thủy tinh trên miệng gắn nỏ thủy tinh bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng ghi là ma túy; 01 ống nhựa phía trên có gắn nỏ thủy tinh; 03 chiếc quẹt ga. Quá trình điều tra xét thấy không cần thiết nên Cơ quan cảnh sát điều tra trả lại biển số xe 93A- 142.15 cho chủ sỡ hữu hợp pháp.

Tại bản kết luận giám định số: 15/KLMT-PC09, ngày 15/3/2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đăk Nông kết luận.

Tinh thể màu trắng đục trong bì thư thứ nhất được thu giữ trong nỏ thủy tinh có khối lượng là 0,1771 gam là Methamphetamie. Methamphetamie là chất ma túy nằm trong danh mục IIC, Stt 323, Nghị định 73, ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Tinh thể màu trắng trong bì thư thứ hai được thu giữ trong túi nylon để trong ví da của bị cáo có khối lượng là 0,2141 gam là Methamphetamie. Methamphetamie là chất ma túy nằm trong danh mục IIC, Stt 323, Nghị định 73, ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Tổng khối lượng của hai bì thư gửi đi giám định là 0,3912 gam là Methamphetamie, hoàn lại sau giám định là 0,2344 gam.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra bị cáo thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Ti cáo trạng số: 20/Ctr -VKS, ngày 20/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Đức, tỉnh Đăk Nông truy tố bị cáo Trần Xuân H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1, Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Bị cáo Trần Xuân H thừa nhận thực hiện hành vi như nội dung cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Đức, tỉnh Đăk Nông truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự là đúng, không oan.

Tại phiên tòa vị đại diện Viện kiểm sát sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội cũng như tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo; giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị HĐXX.

Áp dụng khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38-BLHS. Xử phạt bị cáo từ 12 đến 15 tháng tù. Thời hạn phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 12/3/2019.

* Biện pháp tư pháp: Áp dụng điểm a, khoản 1, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và điểm a, khoản 2, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

+ Chấp nhận việc xử lý vật chứng của Cơ quan CSĐT Công an huyện Tuy Đức trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp anh Lê Minh T 01 xe ô tô biển số 93A-142.15, nhãn hiệu Madaz 3.

+ Tịch thu, tiêu hủy 0,3912 gam Methamphetamie (hoàn lại sau giám định); 01 ống nhựa phía trên có gắn nỏ thủy tinh; 03 chiếc quẹt ga là vật chứng của vụ án.

Phn tranh luận bị cáo Trần Xuân H thừa nhận hành vi phạm tội, không tranh luận gì với vị đại diện Viện kiểm sát, xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Lời nói sau cùng: Bị cáo H tỏ ra hối hận về hành vi mình đã thực hiện xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tuy Đức, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo được tống đạt đầy đủ văn bản tố tụng, quá trình điều tra, truy tố và xét xử không có khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Vì vậy, các hành vi, quyết định tố tụng đều hợp pháp. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án.

[2] Như vậy, do ý thức coi thường pháp luật, bản thân bị cáo là đối tượng nghiện ma tuý. Vào lúc 20 giờ 45 phút cùng ngày Trần Xuân H có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Hành vi của bị cáo là nguyên nhân làm phát sinh các tội phạm khác gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội tại địa phương. Do đó, hành vi của bị cáo Trần Xuân H đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 249 - BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

“Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định:

1. “Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy, mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

.....

c. Heroine, Cocainne,Methamphetamine,Amphetamine MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1gam đến dưới 05 gam.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bản thân bị cáo ý thức được ma tuý huỷ hoại sức khoẻ con người và ma tuý cũng là nguyên nhân gây ra các loại tội phạm khác nên Nhà nước có chính sách quản lý độc quyền về ma túy, nghiêm cấm và trừng trị mọi hành vi vi phạm. Vì vậy, cần dành cho bị cáo một hình phạt đủ nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội sau này.

Tuy nhiên, việc bị cáo phạm tội một phần là do bị cáo là đối tượng nghiện ma tuý, kinh tế gia đình khó khăn, sự quan tâm của gia đình và xã hội không nhiều nên bị cáo không có quyết tâm để đoạn tuyệt với ma tuý.

[4] Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51- BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). HĐXX sẽ áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[5] Xét về điều kiện kinh tế của bị cáo: Tại phiên toà đã làm rõ bị cáo có điều kiện kinh tế khó khăn, bản thân bị cáo sống phụ thuộc vào bố mẹ, bị cáo chưa có công ăn việc làm và chưa có thu nhập nên HĐXX không áp dụng khoản 5 Điều 249 – Bộ luật hình sự năm 2015 để phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Trong vụ án này còn có Vũ Huy H có hành vi sử dụng ma túy, Công an huyện Tuy Đức đã ra quyết định xử lý hành chính theo quy định của pháp luật.

Đối với người đàn ông (chưa xác định nhân thân lai lịch) đã bán ma túy cho Trần Xuân H, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tuy Đức đang tiến hành điều tra, xác minh khi nào có căn cứ sẽ xử lý sau.

[7] Về biện pháp tư pháp:

- Đối với chiếc xe ô tô nhãn hiệu MazDa 3 mang biển kiểm soát 93A-142.15, quá trình điều tra xác định chủ sở hữu chiếc xe ô tô là anh Lê Minh T, anh T không biết việc Trần Xuân H thuê xe ô tô đi và tàng trữ ma túy, nên cơ quan CSĐT công an huyện Tuy Đức đã xử lý vật chứng trả lại cho anh T là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật nên cần chấp nhận.

- Tịch thu tiêu hủy 0,3912 gam Methamphetamie (hoàn lại sau giám định); 01 ống nhựa phía trên có gắn nỏ thủy tinh; 03 chiếc quẹt ga là vật chứng của vụ án.

[8] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Xuân H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 - Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Trần Xuân H 01 (một) năm tù. Thời hạn phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 12/3/2019.

2. Về biện pháp tư pháp: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; Điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tch thu tiêu hủy 0,3912 gam Methamphetamie (hoàn lại sau giám định); 01 ống nhựa phía trên có gắn nỏ thủy tinh; 03 chiếc quẹt ga là vật chứng của vụ án.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326 ngày 30/12/2016 của UBTVQH14.

Buộc bị cáo Trần Xuân H phải chịu 200.000 đồng tiền án phí HSST.

4. Bị cáo Trần Xuân H được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

248
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 21/2019/HSST ngày 17/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:21/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuy Đức - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về