Bản án 21/2018/HSST ngày 07/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Y - TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 21/2018/HSST NGÀY 07/03/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 3 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Y, tỉnh Bắc Ninh mở phiên toà để xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 10/2018/HSST ngày 07 tháng 02 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2018/QĐXXST-HS ngày 26tháng 02 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Tho Văn L, sinh năm 1987.

Nơi cư trú: Bản M, xã B, huyện Ch, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: Lớp 12/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tho Văn Ng và bà Hà Thị L; vợ: Ma Thị H; có 01 con sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/12/2017 đến nay tại Trại tạm giam côngan tỉnh Bắc Ninh. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 45 phút ngày 15/12/2017, tại khu vực cổng chào thuộc địa phận thôn Ng, thị trấn Ch, Công an huyện Y phối hợp với công an thị trấn Ch bắt quả tang Tho Văn L đang có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói nhỏ bọc ngoài bằng giấy bạc màu trắng, bên trong chứa chất bột màu trắng trong lòng bàn tay phải của L. L khai đó là Heroine vừa mua về để sử dụng. Lực lượng công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và trưng cầu giám định đối với chất bột màu trắng chứa trong gói giấy bạc màu trắng.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói nhỏ bọc ngoài bằng giấy bạc màu trắng, bên trong chứa chất bột màu trắng.

Tại bản kết luận số 61/KLGĐMT - PC54 ngày 16/12/2017 của Phòng KTHS Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 01 gói nhỏ bọc ngoài bằng giấy bạc màu trắng có trọng lượng 0,1768 gam; là ma túy; loại ma túy: chất Heroine.

Tại bản Cáo trạng số 09/CTr - VKSYP ngày 07/02/2018 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân huyện Y, tỉnh Bắc Ninh đã truy tố Tho Văn L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 194 - Bộ luật hình sự năm 1999 (BLHS 1999) và khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (BLHS 2015).

Tại phiên toà Tho Văn L thừa nhận Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố hành vi phạm tội của bị cáo là đúng và khai nhận: L sử dụng Heroine từ tháng 10/2017 nên khoảng 20 giờ 30 phút ngày 15/12/2017 L đi nhờ xe máy của một người đàn ông không quen biết từ thôn Ô, xã Đ lên thị trấn Ch để mua Heroine về sử dụng. Đến khu vực cổng chào huyện Y, L xuống xe, người đàn ông đèo L đi đâu L không biết. L đi bộ vào 01 quán nước thì gặp 01 người đàn ông không quen biết. L hỏi mua Heroine thì anh ta nói có. L đưa cho người đàn ông đó 200.000đ, người đàn ông đó đưa cho L01 gói nhỏ bọc ngoài bằng giấy bạc màu trắng bên trong có chứa Heroin, L cầm góima túy đó tại lòng bàn tay phải. Đúng lúc đó thì lực lượng công an kiểm tra phát hiện và thu giữ tại lòng bàn tay phải L 01 gói nhỏ bọc ngoài bằng giấy bạc màu trắng.

Anh Lê Tài Q và anh Nghiêm Đình Qu - Người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng theo lời khai tại cơ quan điều tra (CQĐT) có trong hồ sơ thể hiện: Khoảng20 giờ 45 phút ngày 15/12/2017, anh Q và anh Qu có công việc đi qua khu vực cổngchào huyện Y thì thấy lực lượng công an đang tiến hành kiểm tra Tho Văn L và thu giữ tại lòng bàn tay phải L 01 gói nhỏ bọc ngoài bằng giấy bạc màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng, L khai đó là Heroine mới mua để sử dụng. Lực lượng công an niêm phong gói nhỏ đó và đưa L về trụ sở giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Y thực hành quyền công tố tại phiên toà khẳng định: Khoảng 20 giờ 45 phút ngày 15/12/2017, tại khu vực cổng chào huyện Y, Tho Văn L đã có hành vi cất giữ trái phép 0,1768 gam Heroine nên đã giữ nguyên nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) tuyên bố Tho Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Sau khi phân tích tính chất vụ án, nhân thân cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 194, khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33; Điều 41BLHS 1999; khoản 1 Điều 249; điểm V khoản 1 Điều 51; khoản 3 Điều 7 BLHS 2015; Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên phạt bị cáo Tho Văn L với mức án từ 18-22 tháng tù.

*Về vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu huỷ số ma tuý còn lại sau giám định.

Bị cáo không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo là dân tộc ít người, nhận thực pháp luật còn hạn chế nên xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo tại phiên toà.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra taị phiên toà, phù hợp với kết quả tranh luận tại phiên toà thể hiện:

Khoảng 20 giờ 45 phút ngày 15/12/2017 tại khu vực Cổng chào huyện Y, Tho Văn L đã có hành vi cất giữ trái phép 0,1768 gam Heroine để sử dụng. Do vậy đại diện VKSND huyện Yên Phong thực hành quyền công tố tại phiên toà đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” là có căn cứ, đúng pháp luật.

Bị cáo phạm tội không phải có tổ chức và khối lượng cất giữ trái phép là 0,1768 gam Heroine nên hành vi của bị cáo đã phạm vào khoản 1 Điều 194 BLHS 1999. Theo khoản 1 Điều 194 BLHS 1999 thì có khung hình phạt từ 02-07 năm tù nhưng theo khoản 1 Điều 249 BLHS 2015 quy định: “Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Hêrôin, Côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 5 gam…”

Như vậy khoản 1 Điều 249 BLHS 2015 có khung hình phạt nhẹ hơn khoản 1Điều 194 BLHS 1999. Để đảm bảo có lợi cho bị cáo cần áp dụng BLHS 2015 để xét xử đối với hành vi phạm tội của bị cáo.

Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Do vậy hành vi của bị cáo cần được xử lý nghiêm để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Bị cáo từ trước đến nay chưa có sai phạm gì, sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, bị cáo có thành tích hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ khi phục vụ trong quân đội. Đây là các tình tiết giảm nhẹ được qui định tại điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS1999 và điểm V khoản 1 Điều 51 BLHS 2015 nên cũng cần xem xét giảm nhẹ cho bịcáo khi quyết định hình phạt.

Căn cứ tính chất của vụ án thấy cần buộc bị cáo cách ly xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục.

Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, kinh tế khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

*Về nguồn gốc số ma túy: Bị cáo khai mua của người thanh niên ở khu vực cổng chào huyện Y nhưng không biết tên, tuổi cũng như địa chỉ cụ thể nên CQĐT không đủ căn cứ xác minh làm rõ.

*Về vật chứng: CQĐT thu giữ 0,1768 gam Heroine, qua giám định khối lượng còn lại sau giám định là 0,0745 gam. Đây là vật liên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội, giá trị sử dụng không có nên cần tịch thu tiêu huỷ.

Bị cáo phải chịu án phí theo luật định.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Tho Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33; Điều 41 BLHSnăm 1999; khoản 3 Điều 7; khoản 1 Điều 249; điểm V khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015; điểm h khoản 2 Điều 2 Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội; Điều 106; Điều 329 BLTTHS; Điều 26 Luật thi hành án dân sự (LTHADS).

Phạt:  Tho  Văn  L  22  (Hai  hai)  tháng  tù.  Thời  hạn  tù  được  tính  từ  ngày 16/12/2017. Tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án (07/3/2018) theo Quyết định tạm giam của Hội đồng xét xử.

* Về vật chứng: Tịch thu 0,0745 gam Heroine còn lại sau giám định để tiêu hủy.

* Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời  hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 LTHADS thì người phải thi hành án có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7 và 9 LTHADS. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại điều 30 LTHADS.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 21/2018/HSST ngày 07/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:21/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Phong - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về