TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 211/2020/HS-ST NGÀY 24/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 24 tháng 6 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 157/2020/HSST ngày 23/3/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2787/2020/QĐXXST-HS ngày 01/6/2020 đối với bị cáo:
Lưu Dưỡng A, sinh năm 1978 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi thường trú: 27/19 Tân Thành nối dài, Phường B, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh;; trình độ học vấn: 02/12; nghề nghiệp: không; dân tộc: Hoa; tôn giáo: không; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vương Tế D và bà Lưu Thị E (đều đã chết); tiền sự: không; tiền án: Tại Bản án số 76/2016/HSST ngày 21/3/2016 bị Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, chấp hành xong án phạt tù ngày 28/02/2018. Bị bắt tạm giam ngày 11/6/2019 (có mặt).
Người bào chữa: Luật sư Nguyễn Văn Tài thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Lưu Dưỡng A (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 11/6/2019, tại trước nhà số 601 Hương Lộ 2, phường H, quận K, Thành phố Hồ Chí Minh, Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Công an quận K, Thành phố Hồ Chí Minh phát hiện Lưu Dưỡng A đang ngồi sau xe gắn máy do Nguyễn Hùng G điều khiển, có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy nên tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra, phát hiện trong túi áo khoác bên phải A đang mặc có 01 bao lì xì màu đỏ vàng đang bên trong có 03 gói nylon chứa tinh thể không màu; trong túi áo khoác phía ngoài bên phải có 01 gói nylon chứa tinh thể không màu dán băng keo màu đen lên một tờ tiền mệnh giá 5.000 đồng. Kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 25,4352 gam, loại Methamphetamine.
Đến 23 giờ 50 phút ngày 11/6/2019, tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của A tại nhà số 155/43 Phó Cơ Điều, Phường 6, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh phát hiện, thu giữ: 01 gói nylon chứa tinh thể không màu trong 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Jet, để trong tủ kệ tivi là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 4,9789 gam, loại Methamphetamine; 01 hộp nhựa chứa chất bột màu xanh trên nền nhà trong góc phòng ngủ là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 453,36 gam, loại Ketamine; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy tổng hợp.
Toàn bộ ma túy đã được giám định, kết quả thể hiện tại bản Kết luận giám định số 1279/KLGĐ-H ngày 18/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự (PC09), Công an thành phố Hồ Chí Minh.
Quá trình điều tra bị can Lưu Dưỡng A khai nhận: Do nghiện ma túy nên ngày 09/6/2019, A gặp đối tượng tên Bằng (không rõ lai lịch) ở khu vực đường Tạ Uyên thuộc Quận 11 mua 30 gam ma túy tổng hợp (đá) với giá 9.800.000 đồng và chất bột màu xanh cũng là ma túy tổng hợp để trong 01 hộp nhựa giá 3.700.000 đồng. A mang ma túy về nơi ở, chia ma túy đá thành 05 gói nhỏ, cất giấu 04 gói vào túi áo khoác thì bị bắt quả tang, 01 gói cất giấu tại nhà thì bị khám xét thu giữ. Riêng chất bột màu xanh trong hộp nhựa thì Bằng nói A bỏ nước vào làm thành viên, sử dụng như “thuốc lắc” nhưng chưa kịp sử dụng thì bị thu giữ. A mua ma túy cất giấu để sử dụng, không có mục đích nào khác.
Đối với Nguyễn Hùng G là bạn của A, ngày 11/6/2019 A nhờ ông G chở đi công việc, G không biết A cất giấu ma túy, phù hợp với lời khai của A. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an Thành phố Hồ Chí Minh không xử lý đối với ông G.
Đối với đối tượng tên Bằng, do A khai không rõ lai lịch, địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không có cơ sở điều tra, xác minh làm rõ để xử lý.
Vật chứng vụ án, thu giữ gồm: 03 gói niêm phong bên ngoài ghi vụ số 1279/2019 (gói 1,2,3), bên ngoài có chữ ký ghi tên Giám định viên Huỳnh Thanh Thảo và Cán bộ điều tra Hồ Tấn Trường, bên trong là ma túy còn lại sau giám định; 01 tờ tiền mệnh giá 5.000 tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có dán 01 miếng băng keo màu đen; 01 bao lì xì màu đỏ vàng; 01 bịch nylon màu đen;
01 điện thoại di động hiệu Samsung có gắn sim số 0907925216; 01 điện thoại di động hiệu Huawei có gắn sim số 0939573547, các điện thoại này A khai để liên lạc cá nhân không liên quan đến việc tàng trữ ma túy; 01 xe gắn máy hiệu SYM Atttila, biển số 63K7-5740, số khung: RLGKA12HD-BD050681, số máy: VMVTBB-D-050681.
Tại Bản Cáo trạng số 94/CTr-VKS-P1 ngày 03/3/2020, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Lưu Dưỡng A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, bị cáo Lưu Dưỡng A đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Bị cáo thừa nhận việc Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội danh “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng, không oan sai.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi phân tích lời khai của bị cáo, cùng với các tình tiết, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Lưu Dưỡng A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Lưu Dưỡng A từ 16 đến 18 năm tù; buộc bị cáo phải nộp phạt bổ sung số tiền 10.000.000 đồng để sung vào ngân sách nhà nước. Về xử lý vật chứng thì đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.
Luật sư Nguyễn Văn Tài bào chữa cho bị cáo thống nhất về tội danh truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo nhận thức pháp luật kém. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 và cân nhắc thêm cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo với mức hình phạt nhẹ hơn mức mà Viện kiểm sát đề nghị.
Bị cáo Lưu Dưỡng A thống nhất với lời bào chữa của vị luật sư, không tranh luận gì thêm.
Tranh luận lại ý kiến của vị luật sư, đại diện Viện kiểm sát cho rằng: bị cáo đã từng phạm tội nên nhận thức rất rõ tác hại của ma túy, vì vậy không thể xem là bị cáo có nhận thức pháp luật kém. Luật sư thống nhất về tội danh, chỉ nêu các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét khi lượng hình.
Trong phần nói lời sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung do cha mẹ bị cáo đã chết, bị cáo không còn người thân, không có tài sản nên không có khả năng thi hành án. Việc áp dụng hình phạt bổ sung sẽ ảnh hưởng đến quá trình xét giảm án khi bị cáo chấp hành án.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện ý kiến của kiểm sát viên, luật sư bào chữa và bị cáo, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của của cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Lưu Dưỡng A không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Luật sư bào chữa cho bị cáo Lưu Dưỡng A không có ý kiến về quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, bị cáo đều trình bày lời khai hoàn toàn tự nguyện, không bị ép cung, nhục hình. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Lưu Dưỡng A đã khai nhận toàn bộ những hành vi phạm tội do bị cáo gây ra như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Xét lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ căn cứ xác định: Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 11/6/2019, tại tại trước nhà số 601 Hương Lộ 2, phường H, quận K, Thành phố Hồ Chí Minh, Lưu Dưỡng A có hành vi cất cất giấu trong túi áo khoác 04 gói ma túy ở thể rắn có khối lượng 25,4352 gam, loại Methamphetamine thì bị kiểm tra thu giữ và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Tiến hành khám xét nơi ở của A thu giữ 01 gói ma túy ở thể rắn có khối lượng 4,9789 gam, loại Methamphetamine và 01 hộp nhựa chứa chất bột màu xanh là ma túy ở thể rắn có khối lượng 453,36 gam, loại Ketamine. Số ma túy trên được giám định theo bản Kết luận giám định số 1279/KLGĐ-H ngày 18/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự (PC09), Công an thành phố Hồ Chí Minh. Bị cáo khai nhận toàn bộ số ma túy trên được mua của đối tượng tên Bằng không rõ lai lịch để sử dụng thì bị phát hiện thu giữ.
Với hành vi tàng trữ hai chất ma túy có khối lượng 30,4141 gam Methamphetamine và 453,36 gam Ketamine mục đích để sử dụng, đã có cơ sở để tuyên bố bị cáo Lưu Dưỡng A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 như Cáo trạng đã truy tố và lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa hôm nay là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, không những trực tiếp xâm hại đến việc quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy mà còn xâm hại trực tiếp đến trật tự trị an xã hội, tiếp tay cho tệ nạn ma túy gia tăng. Bị cáo biết rất rõ ma túy là một tệ nạn xã hội nguy hiểm, không chỉ hủy hoại sức khỏe con người, mà còn là nguồn gốc phát sinh ra nhiều loại tội phạm khác.
Ngày 21/3/2016 bị cáo bị Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, chấp hành xong án phạt tù ngày 28/02/2018 chưa được xóa án tích, nay lại phạm tội đặc biệt nghiệm trọng do cố ý nên thuộc trường hợp tái phạm. Đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Vì vậy, cần thiết phải xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội do bị cáo gây ra để răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội.
[4] Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn và tỏ ra ăn năn hối cải. Vì vậy, xét có thể áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu.
Do bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, cha mẹ đã chết, bị cáo cũng không có anh chị em, không có vợ con và không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền với bị cáo.
Đối với Nguyễn Hùng G là bạn của bị cáo A, ngày 11/6/2019 A nhờ G chở đi công việc, G không biết A cất giấu ma túy, phù hợp với lời khai của A. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an Thành phố Hồ Chí Minh không xử lý đối với ông G là có căn cứ.
Đối với đối tượng tên Bằng, do A khai không rõ lai lịch, địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không có cơ sở điều tra, xác minh làm rõ để xử lý là đúng quy định.
[5] Về xử lý vật chứng, căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
- Đối với số ma túy còn lại sau giám định là vật cấm lưu hành; miếng băng keo màu đen, bao lì xì màu đỏ vàng, bịch nylon màu đen, không còn giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy.
- Đối với 01 tờ tiền mệnh giá 5000 đồng dùng để gói ma túy, rách nát thì tịch thu giao cho Ngân hàng Nhà nước xử lý theo quy định của pháp luật.
- Đối với: 02 điện thoại di động hiệu Huawei và Samsung thu giữ của Lưu Dưỡng A không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.
- Đối với 01 xe gắn máy hiệu SYM Atttila, biển số 63K7-5740, số khung: RLGKA12HD-BD050681, số máy: VMVTBB-D-050681. Qua xác minh, biển số 63K7-5740 gắn trên xe là của xe gắn máy hiệu WAYMAN màu đỏ, số khung: PCH0022A011055; số máy: 152FMH011055 do chị Nguyễn Thị Trinh, tên gọi khác Nguyễn Tuyết Trinh đứng tên chủ sở hữu. Chị Trinh khai đã bán xe này cho một người tên Ếch (không rõ lai lịch), không làm thủ tục sang tên. Giám định số khung, số máy của xe Attila không thay đổi, xác minh không có thông tin chủ sở hữu. A khai mua xe này của một người bạn (không rõ lai lịch) giá 2.000.000 đồng khoảng 02 tháng trước khi bị bắt để làm phương tiện đi lại, xe không có giấy đăng ký. Do xe không có thông tin chủ sở hữu, được gắn biển số của một xe khác cũng đã mua bán qua nhiều người không đủ điều kiện đưa vào lưu thông, bị cáo cũng đã sử dụng xe để đi mua ma túy về sử dụng nên tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước.
[6] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm h khoản 4 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt Lưu Dưỡng A 16 (mười sáu) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 11/6/2019.
Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:
- Tịch thu, tiêu hủy: 03 gói niêm phong ghi vụ số: 1279 (gói 1,2,3) bên ngoài có chữ ký niêm phong của Giám định viên Huỳnh Thanh Thảo và CBĐT Hồ Tấn Trường, bên trong là ma túy còn lại sau giám định; 01 miếng băng keo màu đen; 01 bao lì xì màu đỏ vàng; 01 bịch nylon màu đen;
- Giao cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xử lý theo quy định pháp luật đối với: 01 tờ tiền mệnh giá 5000 VNĐ (dùng để gói ma túy, rách nát, không còn giá trị sử dụng);
- Trả lại cho bị cáo Lưu Dưỡng A: 01 điện thoại di động hiệu Huawei (không kiểm tra dược Imei do không có nguồn điện) và 01 điện thoại di động hiệu Samsung có kèm sim (màu xanh, không kiểm tra được imei do không có nguồn điện).
- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 xe hai bánh gắn máy, nhãn hiệu SYM, số loại: Attila, biển số 63K7-5740, số khung: RLGKA12HD- BD050681 (sét mờ), số máy: VMVTBB-D-050681 (sét mờ), không gương, dàn nhựa bể, xe cũ rỉ sét, đã qua sử dụng, không kiểm tra máy móc bên trong.
(Theo Biên bản giao nhận tang tài vật số NK2020/202 ngày 26/3/2020 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh).
Căn cứ Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 211/2020/HS-ST ngày 24/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 211/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/06/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về