TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN
BẢN ÁN 205/2020/HSST NGÀY 25/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 25 tháng 5 năm 2020 tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 133/2020/HSST ngày 24/3/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 197/2020/QĐXXST-HS ngày 24/4/2020 đối với bị cáo:
Họ và tên: Bế Văn S; tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; sinh ngày 12/9/1991; nơi đănh ký HKTT: Xóm N, xã Đ, huyện V, tỉnh Lạng S; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Nùng; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Không; học vấn: 6/12; con ông Bế Văn S và bà Hoàng Thị M; chưa có vợ, con; tiền án:
+ Tại bản số 83/2015/HSST ngày 23/9/2015 TAND thành phố Lạng S, tỉnh Lạng S xử phạt 02 năm tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy";
+ Tại bản số 85/2017/HSST ngày 27/11/2017 TAND thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng xử phạt 12 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản"; ngày 16/9/2018 chấp hành xong hình phạt tù, chưa chấp hành án phí hình sự sơ thẩm; tiền sự: Tại Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 258/2018/QĐ - TA ngày 12/12/2018 của TAND thành phố Thái Nguyên quyết định đưa đi cai nghiện bắt buộc 15 tháng; ngày 03/02/2020 chấp hành xong; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/02/2020 đến nay; có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 14 giờ 00 ngày 11/02/2020 tổ công tác của Công an phường T, thành phố Thái Nguyên đang làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát tại khu vực cầu Gi thuộc tổ dân phố Gi, phường Đ, thành phố Thái Nguyên, phát hiện, bắt quả tang tại túi áo khoác bên trái của Bế Văn S đang mặc có 02 gói nhỏ giấy bạc màu vàng, bên trong mỗi gói có chứa chất bột màu trắng, S khai nhận đó là Heroine của S mua để sử dụng cho bản thân.
Cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên tiến hành mở niêm phong cân xác định khối lượng số chất bột màu trắng trong 02 gói giấy bạc màu vàng thu giữ của Bế Văn S có khối lượng 0,195 gam. Niêm phong trong bì ký hiệu A1 gửi giám định.
Tại Kết luận giám định số 317/KL-KTHS ngày 19/02/2020 của Phòng kỹ thuật Hình sự, Công an tỉnh Thái Nguyên, kết luận: Chất bột màu trắng trong bì ký hiệu A1 gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,195 gam.
Tại cơ quan điều tra, Bế Văn S khai: Khoảng 13 giờ 50 phút ngày 11/02/2020 S đi bộ từ hướng thành phố Thái Nguyên đến khu vực đầu cầu Gi, thuộc phường Đ, thành phố Thái Nguyên để tìm mua ma túy sử dụng cho bản thân. S gặp mua của 01 nam thanh niên không quen biết 02 gói giấy bạc màu vàng, bên trong mỗi gói chứa Heroine với giá 200.000 đồng. S cất 02 gói Heroine vừa mua được vào trong túi áo khoác bên trái đang mặc rồi đi tìm nơi sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang thu giữ vật chứng như nêu trên.
Vật chứng của vụ án: 01 bì niêm phong ký hiệu A1 bên trong chứa Heroine (mẫu hoàn lại sau giám định).
Tại bản cáo trạng số 149/CT-VKSTPTN ngày 23/3/2020, VKSND thành phố Thái Nguyên truy tố Bế Văn S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa bị cáo Bế Văn S khai nhận rõ hành vi phạm tội như lời khai tại cơ quan điều tra và bản cáo trạng mô tả.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên giữ nguyên bản cáo trạng số 149/CT-VKSTPTN ngày 23/3/2020, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Bế Văn S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;
- Đề nghị áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt Bế Văn S từ 6 đến 7 năm tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bi cáo; tịch thu tiêu hủy vật chứng.
Trong phần tranh luận bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ Luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật.
Về hành vi phạm tội của bị cáo:
[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Bế Văn S tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản phạm pháp quả tang, vật chứng thu được, Kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu khác được thu thập hợp lệ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định Bế Văn S đã có hành vi tàng trữ 0,195 gam Hê rô in nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Bị cáo đã tái phạm lại phạm tội do cố ý, hành vi phạm tội của bị cáo lần này là tái phạm nguy hiểm, đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.
[3] Bản cáo trạng số 149/CT-VKSTPTN ngày 23/3/2020 VKSND thành phố Thái Nguyên truy tố Bế Văn S theo tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ.
[4] Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của nhà nước, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương.
Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:
[5] Đối chiếu với các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 và không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm quy định Điều 52 Bộ luật hình sự.
Về hình phạt áp dụng đối với bị cáo:
[6] Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tù tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để cải tạo giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.
[7] Về hình phạt bổ sung: bị cáo là người nghiện, không có tài sản, thu nhập, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.
[8] Về vật chứng: cần tịch thu, tiêu hủy số ma túy thu giữ của bị cáo còn lại sau giám định niêm phong ký hiệu A1.
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự;
1/ Xử phạt Bế Văn S 5 (năm) năm 6 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo, ngày 11/02/2020. Căn cứ Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự; Quyết định tạm giam bị cáo Bế Văn S 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.
2/ Về hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.
3/ Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự về xử lý vật chứng: tịch thu, tiêu hủy 01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu: A1 (bên trong có chứa 0,170 gam mẫu A1 còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu A1), mặt sau có 02 dấu tròn đỏ của Phòng KTHS Công an tỉnh Thái Nguyên và chữ ký của Trần Đức Thủy.
Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 231 ngày 25/3/2020 giữa Công an thành phố Thái Nguyên và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên.
4/Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết 326/UBTVQH14 về án phí, lệ phí: buộc bị cáo Bế Văn S phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách Nhà nước.
Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 205/2020/HSST ngày 25/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 205/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/05/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về