Bản án 203/2019/HS-ST ngày 17/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TH, TỈNH TH

BẢN ÁN 203/2019/HS-ST NGÀY 17/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 5 năm 2019 tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố TH, tỉnh TH xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình thụ lý số 194/2019/TLST-HS ngày 04 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 187/2019/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 4 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Lưu Ngọc T - tên gọi khác: Không; sinh năm 1985 tại TH; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Xóm Đ, xã H, huyện Đ, tỉnh TH; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Sán Dìu; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông Lưu Văn B, sinh năm 1960 và con bà Hoàng Thị T1, sinh năm 1962; Bị cáo có vợ Nguyễn Thị N, sinh năm 1986 và có 02 con, con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2015;

Tiền án: Có 01 tiền án. Tại bản án số 93/2016/HSST ngày 29/12/2016 Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh TH xử phạt 12 tháng tù về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản". Ra trại ngày 01/9/2017.

Tiền sự: 01. Tại Quyết định số 58/QĐ-XPHC ngày 14/9/2016, Công an huyện Đ xử phạt vi phạm hành chính số tiền 3.500.000đ về hành vi “Cầm cố tài sản thuộc sở hữu của người khác mà không có giấy ủy quyền hợp lệ của người đó cho người mang tài sản đi cầm cố”. Bị cáo chưa chấp hành xong.

Nhân thân: 01. Tại Quyết định số 53/QĐ-XPHC ngày 17/11/2003, Công an huyện Đ xử phạt vi phạm hành chính số tiền 70.000đ về hành vi “Gây rối trật tự công cộng”. Chấp hành xong ngày 18/11/2003.

Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh TH từ ngày 23/01/2019 cho đến nay. (Có mặt tại phiên tòa)

2. Lê Quang Tr - tên gọi khác: Không; sinh năm 1984 tại TH; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Xóm Đ, xã H, huyện Đ, tỉnh TH; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông Lê Văn L, sinh năm 1960 và con bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1962; Bị cáo có vợ Đỗ Thị X, sinh năm 1991 và có 01 con sinh năm 2009; Tiền án, tiền sự: Không. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh TH từ ngày 23/01/2019 cho đến nay. (Có mặt tại phiên tòa)

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Hoàng Thị T1, sinh năm 1962 - trú tại xóm Đ, xã H, huyện Đ, tỉnh TH (Có mặt tại phiên tòa)

2. Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1962 - trú tại xóm Đ, xã H, huyện Đ, tỉnh TH (Có mặt tại phiên tòa)

- Người chứng kiến:

1. Anh Đào Ngọc T2, sinh năm 1981, trú tại tổ X, phường C, thành phố TH (Vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 11 giờ 20 phút ngày 23/01/2019, tổ công tác Công an phường C, thành phố TH đang làm nhiệm vụ tại khu vực tổ X của phường thì phát hiện hai nam thanh niên có biểu hiện liên quan đến ma túy. Tổ công tác tiến hành kiểm tra, hai nam thanh niên tự khai tên Lưu Ngọc T và Lê Quang Tr. Qua kiểm tra, tổ công tác phát hiện tại lòng bàn tay trái của Tr có 01 (một) gói nilon màu trắng bên trong chứa chất tinh thể màu trắng và 01 (một) viên nén màu hồng (Tr khai là ma túy tổng hợp của Tr và T). Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Lưu Ngọc T, Lê Quang Tr và thu giữ vật chứng theo đúng quy định. Ngoài ra, tổ công tác còn tạm giữ của Lưu Ngọc T 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu MOTOSTAR, màu xanh, biển kiểm soát 20H3-7882 đã qua sử dụng; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6, 16Gb, màu trắng bạc, số imel: 355393075215756, đã qua sử dụng và tạm giữ của Lê Quang Tr 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Angle, màu xanh, biển kiểm soát 20H6-2923 đã qua sử dụng; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu nhãn hiệu Vivo màu hồng, mặt trước màu trắng, màn hình bị vỡ, số imel 2: 865939031713038, đã qua sử dụng.

Cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố TH tiến hành mở niêm phong, cân xác định khối lượng : số chất tinh thể màu trắng có khối lượng 0,262 gam; Viên nén màu hồng có khối lượng 0,104 gam.

Tại bản Kết luận giám định số 356/KL-PC09 ngày 31/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TH kết luận: Chất tinh thể màu trắng trong mẫu T1 gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine có khối lượng 0,262 gam; Viên nén màu hồng trong mẫu T2 gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,104 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Lưu Ngọc T và Lê Quang Tr khai nhận: Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 23/01/2019, Lê Quang Tr dùng điện thoại di động nhãn hiệu Vivo, màu hồng, lắp sim số 0961297064 gọi Lưu Ngọc T đến Nhà nghỉ Sơn Hải 98 thuộc tổ X, phường C, thành phố TH để cùng sử dụng ma túy, T đồng ý. Sau đó, T mượn xe mô tô nhãn hiệu Motostar, màu xanh, biển kiểm soát 20H3-7882 của bà Hoàng Thị T1 (sinh năm 1962, trú tại xóm Đ, xã H, huyện Đ, tỉnh TH), là mẹ đẻ của T đi đến Nhà nghỉ Sơn Hải 98. Tại đây, T đưa cho Tr 300.000 đồng để đi mua ma túy sử dụng. Tr cầm tiền và điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Angel màu xanh, biển kiểm soát 20H6-2923 mượn của mẹ đẻ là bà Nguyễn Thị M (sinh năm 1962, trú tại xóm Đ, xã H, huyện Đ, tỉnh TH) đi đến đường tròn N, gặp một nam thanh niên không quen biết và mua 200.000 đồng ma túy đá, 100.000 đồng ma túy hồng phiến. Sau khi mua được ma túy, Tr quay về Nhà nghỉ Sơn Hải 98 gặp T, chuẩn bị thuê phòng để sử dụng ma túy thì tổ công tác Công an phường C, thành phố TH phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng như nêu trên.

Lời khai của Lưu Ngọc T và Lê Quang Tr phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án

Vật chứng của vụ án:

- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu MOTOSTAR, màu xanh, biển kiểm soát 20H3- 7882 đã qua sử dụng. Hiện đã được trả lại cho bà Hoàng Thị T1 là chủ sở hữu tiếp tục quản lý, sử dụng.

- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Angle, màu xanh, biển kiểm soát 20H6-2923 đã qua sử dụng. Hiện đã được trả lại cho bà Nguyễn Thị M là chủ sở hữu tiếp tục quản lý, sử dụng.

- 01 (một) bì niêm phong ký hiệu T1, bên trong chứa chất ma túy;

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6, màu trắng bạc, 16Gb, màu trắng bạc imel 355393075215756, đã qua sử dụng;

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Vivo màu hồng, mặt trước màu trắng, màn hình bị vỡ, số imel 2: 865939031713038, đã qua sử dụng.

Bản Cáo trạng số 191/CT-VKSTPTN ngày 01 tháng 4 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH đã truy tố các bị cáo Lê Quang Tr và Lưu Ngọc T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Lê Quang Tr và Lưu Ngọc T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Trong lời luận tội, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH sau khi tóm tắt nội dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, xem xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo đã kết luận giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo Lưu Ngọc T và Lê Quang Tr về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 58 Bộ luật hình sự; Xử phạt Lưu Ngọc T từ 30 đến 36 tháng tù giam.

2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 58 Bộ luật hình sự; Xử phạt Lê Quang Tr từ 24 đến 30 tháng tù giam.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

* Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6, màu trắng bạc, 16Gb, màu trắng bạc imel 355393075215756, đã qua sử dụng của Lưu Ngọc T và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Vivo màu hồng, mặt trước màu trắng, màn hình bị vỡ, số imel 2: 865939031713038, đã qua sử dụng của Lê Quang Tr.

* Tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong ký hiệu T1 (Bì niêm phong chứa chất ma túy).

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo không tranh luận, thừa nhận việc truy tố và xét xử các bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là không oan, đúng người, đúng tội.

Phần lời nói sau cùng các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt để sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an, cơ quan Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên thành phố TH trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại tòa, các bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến khiếu nại về hành vi quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi của mình đúng như nội dung cáo trạng đã truy tố, lời khai nhận tội của các bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay là hoàn toàn tự nguyện, khách quan và phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của những người tham gia tố tụng khác, vật chứng thu giữ, kết luận giám định số 356/KL-PC09 ngày 31/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TH. Như vậy, có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử xác định:

Hồi 11 giờ 20 phút ngày 23/01/2019, tại tại khu vực tổ X, phường C, thành phố TN, Lưu Ngọc T và Lê Quang Tr có hành vi tàng trữ 0,366 gam Methamphetamine mục đích để cùng nhau sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của Công an phường C, thành phố TH phát hiện bắt quả tang, thu giữ niêm phong toàn bộ vật chứng.

Hành vi trên của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015

Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

a, b

c, Heroine..., Methamphetamine...có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.

Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH truy tố bị cáo về tội danh và điều luật viện dẫn nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất mức độ của hành vi phạm tội là nghiêm trọng, hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi ma túy hủy hoại sức khỏe con người, là nguyên nhân phát sinh tội phạm và các tệ nạn xã hội khác, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước. Các bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy đối với bản thân và xã hội nhưng không chịu tu dưỡng bản thân mà vẫn thực hiện hành vi phạm tội, điều đó thể hiện sự coi thường pháp luật. Vì vậy cần phải xét xử các bị cáo với mức án phù hợp, buộc các bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục cải tạo các bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, đồng thời góp phần đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung.

Vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn, không có sự bàn bạc, thống nhất từ trước. Do đó các bị cáo phải chịu mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội do các bị cáo gây ra.

[4] Xét về nhân thân các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hội đồng xét xử thấy:

Bị cáo Lưu Ngọc T có nhân thân xấu - năm 2003 Công an huyện Đ xử phạt vi phạm hành chính số tiền 70.000đ về hành vi “Gây rối trật tự công cộng”. Ngày 14/9/2016, Công an huyện Đ xử phạt vi phạm hành chính số tiền 3.500.000đ về hành vi “Cầm cố tài sản thuộc sở hữu của người khác mà không có giấy ủy quyền hợp lệ của người đó cho người mang tài sản đi cầm cố”. Bị cáo chưa chấp hành xong. Bị cáo còn phải chịu 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS. Bị cáo Lê Quang Tr không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 BLHS. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn, ăn năn hối cải đã khai nhận hành vi phạm tội của mình nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử xem xét cân nhắc mức hình phạt cho các bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù, lẽ ra các bị cáo phải chịu hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249 BLHS.Tuy nhiên xác định các bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, mua ma túy về sử dụng không mang tính chất vụ lợi. Hội đồng xét xử xem xét không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Vật chứng của vụ án:

6.1. 01 (một) điện thoại di động màu trắng bạc nhãn hiệu Iphone 6, 16Gb, Imel 355393075215756 đã qua sử dụng của Lưu Ngọc T và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Vivo màu hồng, mặt trước màu trắng, màn hình bị vỡ, Imel 2: 86593903173038, đã qua sử dụng của bị cáo Lê Quang Tr, các bị cáo khai sử dụng vào việc thực hiện hành vi phạm tội, cần tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước.

6.2. Cần tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì niêm phong ký hiệu T1 (Bì niêm phong chứa chất ma túy) thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành.

[7] Về án phí và quyền kháng cáo: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[8] Về nguồn gốc số Heroine bị thu giữ, bị cáo Tr khai mua của một nam thanh niên không quen biết ở khu vực đường tròn N. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ của nam thanh niên đó, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TH không có cơ sở điều tra làm rõ để xử lý.

Bà Nguyễn Thị M là người cho Tr mượn 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Angle, màu xanh, biển kiểm soát 20H6-2923 đã qua sử dụng nhưng bà M không biết Tr sử dụng để đi mua ma túy sử dụng, nên cơ quan điều tra không xử lý và trả lại chiếc xe trên cho bà Minh là phù hợp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự

Tuyên bố: Các bị cáo Lưu Ngọc T và Lê Quang Tr phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy"

2.1. Đối với bị cáo Lưu Ngọc T: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 58 BLHS. Xử phạt: Bị cáo Lưu Ngọc T 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23/01/2019.

2.2. Đối với bị cáo Lê Quang Tr: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58, Điều 38 BLHS. Xử phạt: Bị cáo Lê Quang Tr 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23/01/2019.

Áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự: Quyết định tạm giam các bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

3. Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

3.1. Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động màu trắng bạc nhãn hiệu Iphone 6, 16Gb, Imel 355393075215756 đã qua sử dụng và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Vivo màu hồng, mặt trước màu trắng, màn hình bị vỡ, Imel 2: 86593903173038, đã qua sử dụng.

3.2. Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì niêm phong ký hiệu T1 (Bì niêm phong chứa chất ma túy).

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận số 220 ngày 22/3/2019 giữa Công an thành phố TH với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TH)

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Lưu Ngọc T, Lê Quang Tr mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm nộp vào ngân sách Nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm báo cho các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 203/2019/HS-ST ngày 17/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:203/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về