Bản án 202/2019/HS-ST ngày 28/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI DƯƠNG - TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 202/2019/HS-ST NGÀY 28/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở, Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 205/2019/HSST ngày 15/11/2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 214/2019/HSST-QĐ ngày 18/11/2019, đối với bị cáo:

Nguyễn Thành D, sinh năm 1982; ĐKHKTT và chỗ ở: Số 8/8 NT, khu 10, phường NC, thành phố H, tỉnh Hải Dương; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 05/12; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Nguyễn Quang H1, con bà Nguyễn Thị M; Gia đình có 02 chị em, bị cáo là con thứ hai; Vợ: Trung Thị N1, sinh năm 1982; Có 03 con, con lớn sinh năm 2006, con nhỏ sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Quyết định 191 ngày 19/6/2015, Công an thành phố Hải Dương xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy (nộp phạt ngày 22/6/2015). Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 19/9/2019,chuyển tạm giam từ ngày 20/9/2019 đến nay tại Trại tạm giam Kim Chi, Công an tỉnh Hải Dương. Có mặt tại phiên tòa.

- Ngưi có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Trung Thị N1, sinh năm 1982; ĐKHKTT và chỗ ở: Số 8/8 NT, khu 10, phường NC, thành phố H, tỉnh Hải Dương. Có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng:

+ Anh Trần Trung H2, sinh ngày 24/8/2001; Chỗ ở hiện nay: Khu 11, phường TB, thành phố H, tỉnh Hải Dương.

+ Anh Vũ Thế C, sinh năm 1973; Chỗ ở hiện nay: Số 8 HG, phường QT, thành phố H, tỉnh Hải Dương.

Những người làm chứng đều vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thành D là người nghiện chất ma túy (loại Hêrôin). Khoảng 7giờ30 phút, ngày 19/9/2019, D điều khiển xe mô tô kiểu dáng Airbalde BKS 34B1-469.95 (xe đăng ký tên Trung Thị N1 là vợ bị cáo) ra khu vực xóm Phú Bình, phường NC, thành phố H, mua được 01 gói Heroin với số tiền 100.000đ của một người đàn ông (không rõ họ tên, địa chỉ) rồi cầm trên tay trái đi tìm nơi sử dụng. Khoảng 7 giờ 50 phút, khi D đi đến khu vực chân cầu PL cũ, thuộc phường NC, thành phố H thì bị Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy – Công an thành phố Hải Dương phát hiện kiểm tra, D thả gói ma túy xuống dưới đất. Cơ quan điều tra thu giữ ngay vị trí D đang đứng 01 gói giấy màu trắng có chữ in, kích thước (0,5x1)cm, bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng trước sự chứng kiến của anh Vũ Thế C và anh Trần Trung H2.

Tại Kết luận giám định số 339/KLGĐ-PC09 ngày 21/9/2019, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương kết luận: Chất bột (dạng cục) màu trắng niêm phong trong bì thư ghi thu của Nguyễn Thành D, gửi đến giám định có khối lượng là 0,163 gam là ma túy loại Heroine (Heroinenằm trong danh mục I, STT: 9, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018của Chính phủ).

Về vật chứng: Đối với 0,101gam Heroine hoàn lại sau giám định được đựng trong phong bì số 339/KLGĐ-PC09 có dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương; 01 xe mô tô kiểu dáng Airbalde BKS 34B1-469.95 hiện đang được quản lý tại kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Hải Dương.

Tại Cáo trạng số 203/CT-VKSTPHD, ngày 13/11/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương truy tố bị cáo Nguyễn Thành Dvề tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, rất ân hận về hành vi phạm tội của mình và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm như đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thành D, phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Về hình phạt chính: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Thành Dtừ 12 tháng đến 15 tháng tù, thời hạn tính từ ngày 19/9/2019; Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng; Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,101gam Heroine hoàn lại sau giám định được đựng trong phong bì số 339/KLGĐ-PC09 có dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương; Trả bị cáo và chị Trung Thị N1 01 xe mô tô kiểu dáng Airbalde BKS 34B1-469.95;

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]Li khai của bị cáo Nguyễn Thành Dtại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 7giờ 50 phút ngày 19/9/2019, tại khu vực chân cầu PL cũ, thuộc phường NC, thành phố H, Nguyễn Thành Dcó hành vi đang cất giấu trái phép 0,163 gam Heroine với mục đích để sử dụng thì bị Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy – Công an thành phố Hải Dương bắt quả tang, thu giữ vật chứng. Hành vi của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm vào chính sách độc quyền về quản lý chất ma túy của Nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội được pháp luật bảo vệ. Bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được ma túy là chất gây nghiện bị Nhà nước cấm sản xuất, quản lý và sử dụng nhưng vì mục đích thỏa mãn cơn nghiện, ý thức coi thường pháp luật nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện.

Vic bị cáo cất giấu trái phép 0,163gam Heroine để sử dụng là vi phạm pháp luật. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương truy tố bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Vì vậy, cần áp dụng một hình phạt nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt biết tôn trọng, chấp hành pháp luật và phòng ngừa chung trong xã hội.

[2] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo chưa có tiền án. Ngày 19/6/2015, bị cáo bị Công an thành phố Hải Dương xử phạt vi phạm hành chính về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tuy không xác định là tiền sự đối với bị cáo nhưng thể hiện bị cáo có nhân thân không tốt. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tộinênđược áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1Điều 51 của Bộ luật hình sự xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[3]Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản gì có giá trị nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về vật chứng:

- Đối với 0,101gam Heroine hoàn lại sau giám định được đựng trong phong bì số 339/KLGĐ-PC09 có dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương là chất cấm lưu hành nên tịch thu cho tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Đi với 01 xe mô tô kiểu dáng Airbalde BKS 3B1-469.95, bị cáo sử dụng làm phương tiện đi mua ma túy về sử dụng. Quá trình điều tra xác định xe đăng ký tên vợ bị cáo là chị Trung Thị N1, xác định là tài sản chung của bị cáo và chị N1 trong thời kỳ hôn nhân. Chị N1 không biết bị cáo sử dụng xe để đi mua ma túy, bị cáo không cất giấu ma túy trên xe do vậy cần trả lại bị cáo và chị Trung Thị N1 01 xe mô tô kiểu dáng Airbalde BKS 3B1-469.95 theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[5] Về án phí: Bị cáo bị kết án có tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[6] Về vấn đề khác: Đối với đối tượng bán ma túy cho bị cáo, do không biết họ tên, địa chỉ cụ thể không làm rõ được nên không có căn cứ xử lý. Chị Trung Thị N1 không biết việc bị cáo sử dụng xe để đi mua ma túy do vậy không vi phạm.

[7] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Hải Dương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

n cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí sô 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thành Dphạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành D 14 (mười bốn) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 19/9/2019.

3. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy 0,101gam Heroine hoàn lại sau giám định được đựng trong phong bì số 339/KLGĐ-PC09 có dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương; Trả lại bị cáo Nguyễn Thành D và chị Trung Thị N1 01 xe mô tô kiểu dáng Airbalde BKS 34B1-469.95 (Đặc điểm vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố Hải Dương và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Dương ngày 15/11/2019).

4. Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Thành Dphải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./..

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

301
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 202/2019/HS-ST ngày 28/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:202/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về